Mục Di Trú và Thăng Tiến Đời Sống do Văn Phòng tham vấn di trú Robert Mullins International đảm trách hằng tuần, nhằm cập nhật tin tức và phát huy kiến thức di trú, rất hữu ích cho quý vị quan tâm đến việc bảo lãnh thân nhân. Chủ đề trên đây cũng được thảo luận trực tiếp trên trang nhà,www.rmiodp.com vào mỗi tối thứ Tư, từ 7:00-8:00 giờ và phát thanh, phát hình 24/24 trên www.facebook.com/rmiodp
(Robert Mullins International) Khách đến ngày đầu tiên với vẻ mặt lo âu, căng thẳng. Vì có vốn liếng Anh ngữ, anh tự làm đơn, nộp giấy tờ bảo lãnh cho hôn thê (fiancée) ở Việt Nam. Sau tờ biên nhận vài tháng, anh nhận được thư của cơ quan di trú Hoa Kỳ đòi bổ túc thêm chứng cớ về sự liên hệ của hai bên. Nhưng sau khi bổ túc theo yêu cầu, như anh cho biết, hồ sơ xin bảo lãnh hôn thê bị từ chối. Anh không hiểu tại sao và không biết phải làm sao? - một trở ngại khác, khách đến nhờ văn phòng làm lại bộ Công Hàm Độc Thân để về Việt Nam lấy chồng. Lý do: khách đã từng ly hôn nhưng không hề biết luật rắc rối ở Việt Nam đòi hỏi phải có thêm bộ "Ghi chú ly hôn". Và rất nhiều trường hợp khác gặp trở ngại từ Lãnh sự Hoa Kỳ ở Sài Gòn, làm sai bảo trợ tài chánh, không biết thủ tục kháng cáo khi bị từ chối, gặp khó khăn trong thủ tục khám sức khoẻ, và nhiều vấn đề nan giải khác... Chính vì vậy, điều mà các thân chủ quan tâm đầu tiên cho hồ sơ bảo lãnh là tìm một văn phòng chuyên môn đảm trách.
Uỷ thác niềm tin
Hầu hết thân chủ đều muốn đến một văn phòng chuyên về di trú được người thân quen giới thiệu. Người Việt mình trọng hai chữ "tín nhiệm". Khi những người thân quen giới thiệu một văn phòng dịch vụ đã hoàn tất thành công các hồ sơ bảo lãnh cho chính họ, thường mang lại niềm tin giới thiệu tiếp cho họ hàng, bạn hữu.... Sự tín nhiệm này luôn được người bảo lãnh ở Hoa Kỳ và người được bảo lãnh ở Việt Nam quan tâm. Một số đông khác chọn sự uỷ thác của mình qua những dịch vụ di trú được quảng cáo trên các cơ quan truyền thông. Tâm lý của nhiều người muốn chọn các văn phòng có người ngoại quốc và có chi nhánh dịch vụ ở Việt Nam. Khách cũng có thể thẩm định phần nào về những loại quảng cáo "giá rẻ bất ngờ" mà nhiều người đã phải ân hận khi lỡ "trao duyên" cho các văn phòng này. Khách cần lệ phí bảo lãnh trong tầm tay nhưng điều quan trọng vẫn là công việc bảo lãnh phải trôi chảy. Những văn phòng uy tín luôn xem trọng khách hàng, theo dõi hồ sơ như công việc nhà, và nhất là không thể có quan niệm "kiếm sống" bằng cách hứa hẹn với khách hàng những điều mà chính họ biết rằng không thể làm được.
Khách hàng biết rất rõ những văn phòng uy tín có thể giúp họ vượt qua những trở ngại, vì các văn phòng này được sự tín nhiệm trong cộng đồng, có uy tín với các công sở liên hệ đến di trú của chính phủ; cũng như có một đội ngũ chuyên viên giàu kinh nghiệm, tận tâm và chân thành.
Về phía bên nhà, người được bảo lãnh - vợ hay chồng - thường giao phó việc chọn lựa văn phòng cho người hôn phối bên Mỹ. Họ chỉ quan tâm khi hồ sơ gặp vấn đề: thời gian chờ đợi quá lâu hay gặp trở ngại với Lãnh sự Hoa Kỳ. Vấn đề lo âu đầu tiên là thủ tục giấy tờ làm Công Hàm Độc Thân của người bên Mỹ. Đối với các Sở Tư Pháp ở Việt Nam, mỗi tỉnh có "quyền" giải quyết thủ tục đang ký kết hôn theo kiểu của mình. Mặc dù hiện nay, năm 2016, thủ tục "đăng ký kết hôn" được nhà nước loan báo đơn giản hóa một chút, cho phép hạ một cấp cơ quan hành chánh lo việc này. Có nghĩa là thay vì Sở Tư Pháp Tỉnh giải quyết thì nay là cấp Thành Phố; hoặc cấp Quận, Huyện. Chưa biết việc "đơn giản hóa" này trong tương lai có dễ thở hơn trước không nhưng nhiều cặp vợ chồng mới đây cho biết vẫn là kiểu "hành-chính" theo nghĩa vẫn "hành" là "chính"!
Người bảo lãnh chưa hề kết hôn thường dễ dàng hơn người đã từng ly hôn. Với tâm lý tiện lợi, người hôn phối ở Việt Nam vẫn thích những dịch vụ có thể lo "từ A đến Z", chẳng hạn như: lo luôn thủ tục đăng ký kết hôn (thường rất tốn kém), tổ chức nghi lễ đám cưới, tìm chỗ thuê xe cưới, tiệc cưới, giấy tờ bảo lãnh và những giấy tờ liên quan khác, giới thiệu và, nếu có thể, lo luôn việc hướng dẫn những chuyến đi hưởng tuần trăng mật....
Nhưng, các loại dịch vụ được quảng cáo lo "từ A đến Z" như đã kể trên thường để lại nhiều kinh nghiệm không vui cho khách hàng. Giống như sức khỏe vậy, người ta thường tìm đến các bác sĩ chuyên khoa hơn là bác sĩ toàn khoa, khi muốn được chữa bệnh đặc biệt của mình đến nơi đến chốn. Nhưng con đường được đoàn tụ với vợ, chồng ở Hoa Kỳ không phải lúc nào cũng như mặt nước hồ thu...
Đoạn trường ai có qua cầu mới hay....
Như các bài góp ý khác của văn phòng Robert Mullins International trước đây, việc bảo lãnh vợ-chồng, hay hôn phu-hôn thê, không còn dễ dàng như trước biến cố 11 tháng 9 năm 2001. Với tiêu lệnh "an ninh quốc gia", các cơ quan liên hệ đến di trú của chính phủ được toàn quyền về thời gian xem xét các hồ sơ bảo lãnh, nhất là những người bảo lãnh đến từ các quốc gia có tên trong "danh sách cần quan tâm". Cộng thêm việc thiếu nhân viên di trú và ngân sách thiếu hụt, các cơ quan di trú không thể nào làm khác hơn là chịu đựng những lời than phiền, đôi khi phẫn nộ, từ khách hàng về sự chậm trễ giải quyết hồ sơ bảo lãnh. Và các văn phòng chuyên trách về di trú cũng bị ảnh hưởng không ít về sự "kiên nhẫn" của khách hàng.
Thông thường, những khách hàng chọn được văn phòng chuyên môn và theo đúng sự hướng dẫn của văn phòng thì hồ sơ bảo lãnh được chấp thuận dễ dàng. Và ngược lại, hoặc vì những lý do "thầm kín" đi ra ngoài sự hiểu biết của văn phòng, những hồ sơ bị từ chối hẳn, hoặc được yêu cầu bổ túc thêm chứng minh, giấy tờ; hay phải chờ đợi quá lâu, phản ứng nóng nảy thường xảy ra và đôi khi bất chấp những lý giải hợp tình, hợp lý. Dù sao đi nữa, những phản ứng này có thể hiểu được và nên chia xẻ.
Trong hoàn cảnh này, người vợ ở Việt Nam thường có phản ứng sốt ruột dữ dội nhất, và cũng thường lên tiếng than trách những người liên hệ trong hồ sơ bảo lãnh. Người bảo lãnh, người chồng, luôn lãnh chịu những áp suất hối thúc từ người vợ, gia đình vợ, họ hàng và bạn bè bên vợ. Người bên ngoài thường hay góp ý, bàn tán và sự tưởng tượng đôi khi đi quá xa. Người chồng bên này đại dương bỗng chốc bị mang tiếng "không sốt sắng" và "có ý muốn" bỏ rơi người vợ bên nhà! Thí dụ không thiếu: Anh A đến văn phòng trong trạng thái mệt mỏi, xin tham vấn trường hợp bảo lãnh của anh. Vì muốn tiết kiệm tiền, anh đã tự làm hồ sơ bảo lãnh vợ, và hồ sơ gặp trở ngại phía Lãnh sự Hoa Kỳ ở Việt Nam. Họ của anh giống với họ của vợ. Lãnh sự yêu cầu anh và vợ anh phải nộp khai sinh của hai bên cha-mẹ. Anh không có khai sinh cha mẹ. Không biết xoay sở ra sao, anh đành thúc thủ và đã để hồ sơ kéo dài. Bên gia đình vợ "tiếng chì tiếng bấc", cho rằng anh muốn bỏ... vợ! Có lúc, lòng kiên nhẫn của anh mòn dần. Anh đến nhờ văn phòng giúp đỡ. Dĩ nhiên, vợ anh sau đó đã sang Mỹ đoàn tụ với anh và mọi việc sáng tỏ. Anh được rửa mối "hàm oan" và tình yêu ngày càng mặn nồng....
Ngày rời Việt Nam vốn là kỷ niệm khó quên. Nước mắt, nụ cười, thương nhớ, với biết bao kỳ vọng, mong chờ nơi xứ lạ quê người của người đi và những người ở lại. Một điều mà ít ai để ý là tại phi trường trong ngày tiễn biệt, người đi từ Sài Gòn thường được vây quanh đông đảo bởi toàn bộ gia đình và bạn bè thân thiết; nhưng số đông này nhỏ dần với những người đến từ các tỉnh xa xôi. Nhưng dù nhiều hay ít, tình cảm thân thương vẫn dạt dào.
Tuy nhiên, có người nói: "Hôn nhân không phải là thuyền cập bến mà bắt đầu ra khơi". Sau mười mấy giờ bay với nhiều thổn thức, những người vợ, người chồng sắp gần gũi nhau. Duyên phận thế nào, đó là chuyện mai hậu. Bởi thuyền đã bắt đầu ra khơi. Và đó lại là một chuyển tiếp khác của một đời sống muôn vàn đổi thay, và sẽ được gửi đến qúy vị trong Phần 3 của lọat bài này trong kỳ tới.
LỊCH CẤP CHIẾU KHÁN VÀ CHUYỂN DIỆN CƯ TRÚ THÁNG 8-2016
(1) - IR-1, IR-2, IR-5:Vợ, con vị thành niên, cha mẹ của công dân Hoa Kỳ, luôn luôn hiệu lực
(2) - Diện F-1: Con độc thân, trên 20 tuổi, của công dân Mỹ: Ngày 22/05/2009 (Tăng 8 tuần)
(F-1 Xin Chuyển Diện Cư Trú Tại Hoa Kỳ: 01/01/2010)
(3) - Diện F2A: Vợ hoặc chồng và các con nhỏ của thường trú nhân: 15/11/2014 (Không thay đổi)
(F2A Xin Chuyển Diện Cư Trú Tại Hoa Kỳ: 22/11/2015)
(4) - Diện F2B: Con độc thân, trên 20 tuổi, của thường trú nhân: Ngày 08/01/2010 (Tăng 4 tuần)
(F2B Xin Chuyển Diện Cư Trú Tại Hoa Kỳ: 08/02/2011)
(5) - Diện F-3: Con đã lập gia đình của công dân Mỹ. Ngày 01/12/2004 (Không thay đổi)
(F3 Xin Chuyển Diện Cư Trú Tại Hoa Kỳ: 22/08/2005)
(6) - Diện F-4: Anh chị em của công dân Mỹ: Ngày 15/09/2003 (Tăng 1 tuần)
(F4 Xin Chuyển Diện Cư Trú Tại Hoa Kỳ: 15/06/2004)
(7) - Tu Sĩ-SR: Luôn luôn hiệu lực
Hỏi Đáp Di Trú
- Hỏi: Em của tôi vừa đến Hoa Kỳ với chiếu khán di dân. Trước khi nhận Thẻ Xanh, em tôi có thể trở về Việt Nam để giải quyết một số công việc và sau đó lại dùng chiếu khán di dân dể tái nhập cảnh Hoa Kỳ?
- Đáp: Chiếu Khán Di Dân (Immigarnt Visa) là loại chiếu khán chỉ được cấp một lần và dùng một lần. Nếu em của anh muốn trở về Việt Nam trước khi có Thẻ Xanh, anh ấy có thể sử dùng sổ thông hành Việt Nam có đóng dấu mộc di trú của Hoa kỳ Khi nhập cảnh. Dấu mộc này có ghi ngày nhập cảnh và diện nhập cảnh. Dấu mộc này tương được với Thẻ Xanh tạm và có giá trị một năm. Hoặc em của anh sẽ cần xin Giấy Phép Tái Nhập Cảnh (tức Re-entry Permit). Việc xin Giấp Phép Tái Nhập Cảnh mất thời gian khá lâu, vì thế, anh ấy có thể nhận được Thẻ Xanh trước khi nhận được Giấy Phép Tái Nhập Cảnh.
- Hỏi: Thời gian thông thường phải chờ đợi Lãnh sự Hoa Kỳ duyệt xét những hồ sơ bị từ chối là bao lâu, và có thể làm gì để thúc đẩy việc duyệt xét nhanh hơn không?
- Đáp: Hầu hết các hồ sơ này phải đợi khoảng 6 tháng để được duyệt xét. Chỉ có những trường hợp y tế khẩn cấp mới có thể được quan tâm như một lý do chính đáng để thúc đẩy việc duyệt xét nhanh hơn. Điều cần là kiên nhẫn và quan tâm đến việc liên lạc với Lãnh sự Hoa Kỳ để hỏi thăm về kết quả duyệt xét hồ sơ.
- Hỏi: Cách nào tối nhất để điền đơn Bảo Trợ Tài Chánh I-864 mà không bị sai sót?
- Đáp: Nếu tự làm đơn khai thuế cho chính mình, qúy vị có thể điền đơn I-864 chính xác. Nếu thuế của qúy vị do một nhân viên chuyên môn phụ trách, qúy vị vẫn có thể điền đơn này với sự giúp đỡ của những người có kinh nghiệm điền đơn I-864.
Kính mời quý độc giả đón đọc chủ đề Di Trú và Thăng Tiến Đời Sống trên các báo chí Việt ngữ địa phương số cuối tuần, hoặc nghe trực tiếp chương trình của chúng tôi vào mỗi tối thứ Tư trên các làn sóng: Bắc Cali 1430AM, 7:00-8:00, Nam Cali 106.3FM,7:00-7:30. Phát lại vào Chủ Nhật từ 2:00-3:00PM trên làn sóng 1500AM, và 24/7 trên trang nhà: www.rmiodp.com. Hoặc www.facebook.com/rmiodp. Hay liên lạc với văn phòng Robert Mullins International gần nhất: Westminster: (714) 890-9933 , San Jose (408) 294-3888, Sacramento (916) 393-3388, Rạng Mi: 84-3914-7638 hay Email: info@rmiodp.com
(Robert Mullins International) Khách đến ngày đầu tiên với vẻ mặt lo âu, căng thẳng. Vì có vốn liếng Anh ngữ, anh tự làm đơn, nộp giấy tờ bảo lãnh cho hôn thê (fiancée) ở Việt Nam. Sau tờ biên nhận vài tháng, anh nhận được thư của cơ quan di trú Hoa Kỳ đòi bổ túc thêm chứng cớ về sự liên hệ của hai bên. Nhưng sau khi bổ túc theo yêu cầu, như anh cho biết, hồ sơ xin bảo lãnh hôn thê bị từ chối. Anh không hiểu tại sao và không biết phải làm sao? - một trở ngại khác, khách đến nhờ văn phòng làm lại bộ Công Hàm Độc Thân để về Việt Nam lấy chồng. Lý do: khách đã từng ly hôn nhưng không hề biết luật rắc rối ở Việt Nam đòi hỏi phải có thêm bộ "Ghi chú ly hôn". Và rất nhiều trường hợp khác gặp trở ngại từ Lãnh sự Hoa Kỳ ở Sài Gòn, làm sai bảo trợ tài chánh, không biết thủ tục kháng cáo khi bị từ chối, gặp khó khăn trong thủ tục khám sức khoẻ, và nhiều vấn đề nan giải khác... Chính vì vậy, điều mà các thân chủ quan tâm đầu tiên cho hồ sơ bảo lãnh là tìm một văn phòng chuyên môn đảm trách.
Uỷ thác niềm tin
Hầu hết thân chủ đều muốn đến một văn phòng chuyên về di trú được người thân quen giới thiệu. Người Việt mình trọng hai chữ "tín nhiệm". Khi những người thân quen giới thiệu một văn phòng dịch vụ đã hoàn tất thành công các hồ sơ bảo lãnh cho chính họ, thường mang lại niềm tin giới thiệu tiếp cho họ hàng, bạn hữu.... Sự tín nhiệm này luôn được người bảo lãnh ở Hoa Kỳ và người được bảo lãnh ở Việt Nam quan tâm. Một số đông khác chọn sự uỷ thác của mình qua những dịch vụ di trú được quảng cáo trên các cơ quan truyền thông. Tâm lý của nhiều người muốn chọn các văn phòng có người ngoại quốc và có chi nhánh dịch vụ ở Việt Nam. Khách cũng có thể thẩm định phần nào về những loại quảng cáo "giá rẻ bất ngờ" mà nhiều người đã phải ân hận khi lỡ "trao duyên" cho các văn phòng này. Khách cần lệ phí bảo lãnh trong tầm tay nhưng điều quan trọng vẫn là công việc bảo lãnh phải trôi chảy. Những văn phòng uy tín luôn xem trọng khách hàng, theo dõi hồ sơ như công việc nhà, và nhất là không thể có quan niệm "kiếm sống" bằng cách hứa hẹn với khách hàng những điều mà chính họ biết rằng không thể làm được.
Khách hàng biết rất rõ những văn phòng uy tín có thể giúp họ vượt qua những trở ngại, vì các văn phòng này được sự tín nhiệm trong cộng đồng, có uy tín với các công sở liên hệ đến di trú của chính phủ; cũng như có một đội ngũ chuyên viên giàu kinh nghiệm, tận tâm và chân thành.
Về phía bên nhà, người được bảo lãnh - vợ hay chồng - thường giao phó việc chọn lựa văn phòng cho người hôn phối bên Mỹ. Họ chỉ quan tâm khi hồ sơ gặp vấn đề: thời gian chờ đợi quá lâu hay gặp trở ngại với Lãnh sự Hoa Kỳ. Vấn đề lo âu đầu tiên là thủ tục giấy tờ làm Công Hàm Độc Thân của người bên Mỹ. Đối với các Sở Tư Pháp ở Việt Nam, mỗi tỉnh có "quyền" giải quyết thủ tục đang ký kết hôn theo kiểu của mình. Mặc dù hiện nay, năm 2016, thủ tục "đăng ký kết hôn" được nhà nước loan báo đơn giản hóa một chút, cho phép hạ một cấp cơ quan hành chánh lo việc này. Có nghĩa là thay vì Sở Tư Pháp Tỉnh giải quyết thì nay là cấp Thành Phố; hoặc cấp Quận, Huyện. Chưa biết việc "đơn giản hóa" này trong tương lai có dễ thở hơn trước không nhưng nhiều cặp vợ chồng mới đây cho biết vẫn là kiểu "hành-chính" theo nghĩa vẫn "hành" là "chính"!
Người bảo lãnh chưa hề kết hôn thường dễ dàng hơn người đã từng ly hôn. Với tâm lý tiện lợi, người hôn phối ở Việt Nam vẫn thích những dịch vụ có thể lo "từ A đến Z", chẳng hạn như: lo luôn thủ tục đăng ký kết hôn (thường rất tốn kém), tổ chức nghi lễ đám cưới, tìm chỗ thuê xe cưới, tiệc cưới, giấy tờ bảo lãnh và những giấy tờ liên quan khác, giới thiệu và, nếu có thể, lo luôn việc hướng dẫn những chuyến đi hưởng tuần trăng mật....
Nhưng, các loại dịch vụ được quảng cáo lo "từ A đến Z" như đã kể trên thường để lại nhiều kinh nghiệm không vui cho khách hàng. Giống như sức khỏe vậy, người ta thường tìm đến các bác sĩ chuyên khoa hơn là bác sĩ toàn khoa, khi muốn được chữa bệnh đặc biệt của mình đến nơi đến chốn. Nhưng con đường được đoàn tụ với vợ, chồng ở Hoa Kỳ không phải lúc nào cũng như mặt nước hồ thu...
Đoạn trường ai có qua cầu mới hay....
Như các bài góp ý khác của văn phòng Robert Mullins International trước đây, việc bảo lãnh vợ-chồng, hay hôn phu-hôn thê, không còn dễ dàng như trước biến cố 11 tháng 9 năm 2001. Với tiêu lệnh "an ninh quốc gia", các cơ quan liên hệ đến di trú của chính phủ được toàn quyền về thời gian xem xét các hồ sơ bảo lãnh, nhất là những người bảo lãnh đến từ các quốc gia có tên trong "danh sách cần quan tâm". Cộng thêm việc thiếu nhân viên di trú và ngân sách thiếu hụt, các cơ quan di trú không thể nào làm khác hơn là chịu đựng những lời than phiền, đôi khi phẫn nộ, từ khách hàng về sự chậm trễ giải quyết hồ sơ bảo lãnh. Và các văn phòng chuyên trách về di trú cũng bị ảnh hưởng không ít về sự "kiên nhẫn" của khách hàng.
Thông thường, những khách hàng chọn được văn phòng chuyên môn và theo đúng sự hướng dẫn của văn phòng thì hồ sơ bảo lãnh được chấp thuận dễ dàng. Và ngược lại, hoặc vì những lý do "thầm kín" đi ra ngoài sự hiểu biết của văn phòng, những hồ sơ bị từ chối hẳn, hoặc được yêu cầu bổ túc thêm chứng minh, giấy tờ; hay phải chờ đợi quá lâu, phản ứng nóng nảy thường xảy ra và đôi khi bất chấp những lý giải hợp tình, hợp lý. Dù sao đi nữa, những phản ứng này có thể hiểu được và nên chia xẻ.
Trong hoàn cảnh này, người vợ ở Việt Nam thường có phản ứng sốt ruột dữ dội nhất, và cũng thường lên tiếng than trách những người liên hệ trong hồ sơ bảo lãnh. Người bảo lãnh, người chồng, luôn lãnh chịu những áp suất hối thúc từ người vợ, gia đình vợ, họ hàng và bạn bè bên vợ. Người bên ngoài thường hay góp ý, bàn tán và sự tưởng tượng đôi khi đi quá xa. Người chồng bên này đại dương bỗng chốc bị mang tiếng "không sốt sắng" và "có ý muốn" bỏ rơi người vợ bên nhà! Thí dụ không thiếu: Anh A đến văn phòng trong trạng thái mệt mỏi, xin tham vấn trường hợp bảo lãnh của anh. Vì muốn tiết kiệm tiền, anh đã tự làm hồ sơ bảo lãnh vợ, và hồ sơ gặp trở ngại phía Lãnh sự Hoa Kỳ ở Việt Nam. Họ của anh giống với họ của vợ. Lãnh sự yêu cầu anh và vợ anh phải nộp khai sinh của hai bên cha-mẹ. Anh không có khai sinh cha mẹ. Không biết xoay sở ra sao, anh đành thúc thủ và đã để hồ sơ kéo dài. Bên gia đình vợ "tiếng chì tiếng bấc", cho rằng anh muốn bỏ... vợ! Có lúc, lòng kiên nhẫn của anh mòn dần. Anh đến nhờ văn phòng giúp đỡ. Dĩ nhiên, vợ anh sau đó đã sang Mỹ đoàn tụ với anh và mọi việc sáng tỏ. Anh được rửa mối "hàm oan" và tình yêu ngày càng mặn nồng....
Ngày rời Việt Nam vốn là kỷ niệm khó quên. Nước mắt, nụ cười, thương nhớ, với biết bao kỳ vọng, mong chờ nơi xứ lạ quê người của người đi và những người ở lại. Một điều mà ít ai để ý là tại phi trường trong ngày tiễn biệt, người đi từ Sài Gòn thường được vây quanh đông đảo bởi toàn bộ gia đình và bạn bè thân thiết; nhưng số đông này nhỏ dần với những người đến từ các tỉnh xa xôi. Nhưng dù nhiều hay ít, tình cảm thân thương vẫn dạt dào.
Tuy nhiên, có người nói: "Hôn nhân không phải là thuyền cập bến mà bắt đầu ra khơi". Sau mười mấy giờ bay với nhiều thổn thức, những người vợ, người chồng sắp gần gũi nhau. Duyên phận thế nào, đó là chuyện mai hậu. Bởi thuyền đã bắt đầu ra khơi. Và đó lại là một chuyển tiếp khác của một đời sống muôn vàn đổi thay, và sẽ được gửi đến qúy vị trong Phần 3 của lọat bài này trong kỳ tới.
LỊCH CẤP CHIẾU KHÁN VÀ CHUYỂN DIỆN CƯ TRÚ THÁNG 8-2016
(1) - IR-1, IR-2, IR-5:Vợ, con vị thành niên, cha mẹ của công dân Hoa Kỳ, luôn luôn hiệu lực
(2) - Diện F-1: Con độc thân, trên 20 tuổi, của công dân Mỹ: Ngày 22/05/2009 (Tăng 8 tuần)
(F-1 Xin Chuyển Diện Cư Trú Tại Hoa Kỳ: 01/01/2010)
(3) - Diện F2A: Vợ hoặc chồng và các con nhỏ của thường trú nhân: 15/11/2014 (Không thay đổi)
(F2A Xin Chuyển Diện Cư Trú Tại Hoa Kỳ: 22/11/2015)
(4) - Diện F2B: Con độc thân, trên 20 tuổi, của thường trú nhân: Ngày 08/01/2010 (Tăng 4 tuần)
(F2B Xin Chuyển Diện Cư Trú Tại Hoa Kỳ: 08/02/2011)
(5) - Diện F-3: Con đã lập gia đình của công dân Mỹ. Ngày 01/12/2004 (Không thay đổi)
(F3 Xin Chuyển Diện Cư Trú Tại Hoa Kỳ: 22/08/2005)
(6) - Diện F-4: Anh chị em của công dân Mỹ: Ngày 15/09/2003 (Tăng 1 tuần)
(F4 Xin Chuyển Diện Cư Trú Tại Hoa Kỳ: 15/06/2004)
(7) - Tu Sĩ-SR: Luôn luôn hiệu lực
Hỏi Đáp Di Trú
- Hỏi: Em của tôi vừa đến Hoa Kỳ với chiếu khán di dân. Trước khi nhận Thẻ Xanh, em tôi có thể trở về Việt Nam để giải quyết một số công việc và sau đó lại dùng chiếu khán di dân dể tái nhập cảnh Hoa Kỳ?
- Đáp: Chiếu Khán Di Dân (Immigarnt Visa) là loại chiếu khán chỉ được cấp một lần và dùng một lần. Nếu em của anh muốn trở về Việt Nam trước khi có Thẻ Xanh, anh ấy có thể sử dùng sổ thông hành Việt Nam có đóng dấu mộc di trú của Hoa kỳ Khi nhập cảnh. Dấu mộc này có ghi ngày nhập cảnh và diện nhập cảnh. Dấu mộc này tương được với Thẻ Xanh tạm và có giá trị một năm. Hoặc em của anh sẽ cần xin Giấy Phép Tái Nhập Cảnh (tức Re-entry Permit). Việc xin Giấp Phép Tái Nhập Cảnh mất thời gian khá lâu, vì thế, anh ấy có thể nhận được Thẻ Xanh trước khi nhận được Giấy Phép Tái Nhập Cảnh.
- Hỏi: Thời gian thông thường phải chờ đợi Lãnh sự Hoa Kỳ duyệt xét những hồ sơ bị từ chối là bao lâu, và có thể làm gì để thúc đẩy việc duyệt xét nhanh hơn không?
- Đáp: Hầu hết các hồ sơ này phải đợi khoảng 6 tháng để được duyệt xét. Chỉ có những trường hợp y tế khẩn cấp mới có thể được quan tâm như một lý do chính đáng để thúc đẩy việc duyệt xét nhanh hơn. Điều cần là kiên nhẫn và quan tâm đến việc liên lạc với Lãnh sự Hoa Kỳ để hỏi thăm về kết quả duyệt xét hồ sơ.
- Hỏi: Cách nào tối nhất để điền đơn Bảo Trợ Tài Chánh I-864 mà không bị sai sót?
- Đáp: Nếu tự làm đơn khai thuế cho chính mình, qúy vị có thể điền đơn I-864 chính xác. Nếu thuế của qúy vị do một nhân viên chuyên môn phụ trách, qúy vị vẫn có thể điền đơn này với sự giúp đỡ của những người có kinh nghiệm điền đơn I-864.
Kính mời quý độc giả đón đọc chủ đề Di Trú và Thăng Tiến Đời Sống trên các báo chí Việt ngữ địa phương số cuối tuần, hoặc nghe trực tiếp chương trình của chúng tôi vào mỗi tối thứ Tư trên các làn sóng: Bắc Cali 1430AM, 7:00-8:00, Nam Cali 106.3FM,7:00-7:30. Phát lại vào Chủ Nhật từ 2:00-3:00PM trên làn sóng 1500AM, và 24/7 trên trang nhà: www.rmiodp.com. Hoặc www.facebook.com/rmiodp. Hay liên lạc với văn phòng Robert Mullins International gần nhất: Westminster: (714) 890-9933 , San Jose (408) 294-3888, Sacramento (916) 393-3388, Rạng Mi: 84-3914-7638 hay Email: info@rmiodp.com