Di Dân Việt Nam: Một Đời Sống Tốt Đẹp Hơn Ở Hoa Kỳ (Phần 5) Đi Mỹ Hay Ở Lại Việt Nam?

Thứ Tư, 29 Tháng Mười 201400:00(Xem: 26748)
Di Dân Việt Nam: Một Đời Sống Tốt Đẹp Hơn Ở Hoa Kỳ (Phần 5) Đi Mỹ Hay Ở Lại Việt Nam?
Di Dân Việt Nam: Một Đời Sống Tốt Đẹp Hơn Ở Hoa Kỳ (Phần 5) Đi Mỹ Hay Ở Lại Việt Nam?

*


Mục di trú và bảo lãnh do Văn Phòng tham vấn di trú Robert Mullins International đảm trách hằng tuần, nhằm mục đích thông báo các tin tức thời sự liên quan đến vấn đề đoàn tụ gia đình, rất hữu ích cho quý vị nào quan tâm đến việc bảo lãnh thân nhân. Đề tài trên đây cũng được thảo luận trực tiếp trên trang nhà của văn phòng, www.rmiodp.com, tiết mục Radio, vào mỗi tối thứ Tư , từ 7:00-8:00 giờ.

Trong những bài viết cùng chủ đề vừa qua, chúng ta đã nói về những khó khăn và thách thức mà mỗi người di dân mới sẽ đối diện tại Hoa Kỳ. Học văn hóa mới, cố gắng học ngôn ngữ mới, và cần việc làm nhanh chóng là những đòi hỏi cần quan tâm một cách cẩn trọng trước khi người sắp di dân nộp đơn xin chiếu khán (visa) sang Hoa Kỳ.

Một số người bảo lãnh nói với người thân rằng có lẽ sẽ là điều tốt hơn nếu họ ở lại Việt Nam vì những khó khăn mà người di dân sẽ gặp sau khi đến Hoa Kỳ. Nhưng, khi người bảo lãnh về thăm Việt Nam, họ nhanh chóng than phiền về sự ô nhiễm, thời tiết nóng nực, lưu thông hỗn loạn, nhiều lúc cần phải trả tiền "trà nước" và thiếu nhiều thứ tự do mà họ đang thụ hưởng ở Hoa Kỳ. Sau khi thăm viếng Việt Nam, liệu có bao nhiêu người bảo lãnh muốn trở về sống ở Việt Nam? Không nhiều đâu!

Những người nghe chương trình hội thoại phát thanh hoặc đọc các chủ đề di trú của văn phòng Robert Mullins International đều biết rất rõ những khó khăn mà những người mới đến sẽ gặp ở Hoa Kỳ. Người bảo lãnh cần dùng kinh nghiệm riêng của mình để quyết định nên dùng cách góp ý nào cần chia xẻ với thân nhân ở Việt Nam. Thí dụ, nếu đang bảo lãnh cho gia đình anh-chị-em có gia đình, qúy vị có nghĩ rằng gia đình này sẽ có thể thích ứng êm đẹp trong xã hội Hoa Kỳ không? Liệu con cái của họ có tha thiết đến Hoa Kỳ để tiếp tục học hành không, hoặc chúng sẽ bị gián đoạn việc học hành ở Việt Nam?

Liệu anh-chị-em của qúy vị có hiểu rằng qúy vị sẽ chỉ có vài tuần lễ giúp thân nhân ổn định và rồi qúy vị sẽ phải trở về với công việc của mình? Và họ sẽ phải tự lo bản thân mình!

Người bảo lãnh cũng phải quan tâm đến người phối ngẫu của mình. Liệu người phối ngẫu có 100% tán thành việc chào đón người di dân mới vào nhà mình không? Liệu việc này sẽ làm cho hai vợ chồng phải cãi nhau? Liệu người di dân có cảm thấy có tội khi ăn nhờ ở tạm nhà của người bảo lãnh, và liệu điều này có sẽ là áp lực để họ phải dọn ra khỏi nhà trước khi họ có thể sẵn sàng tự mưu sinh mà không cần sự giúp đỡ thường nhật của người bảo lãnh?

Qúy vị biết người thân của qúy vị, vì thế, vấn đề của qúy vị là khuyến khích họ hoặc làm họ nản chí, dựa trên những gì qúy vị biết về khả năng của họ có thể đáp ứng những điều kiện mới trong cuộc sống, và dựa vào thái độ chào đón của gia đình qúy vị đối với người di dân như những thành viên mới trong gia đình của qúy vị.

Lại có câu hỏi rằng vậy gia đình người thân của qúy vị có thực sự tồi tệ khi ở lại Việt Nam không? Lại nghe nói rằng Việt Nam ngày càng phát triển và tự do hơn cơ mà?

Điều thực tế là người ta có thấy bầu trời Sài Gòn đã có nhiều văn phòng mọc trên những cao ốc và những khu chung cư mới mẻ, xa lộ mới có vẻ tân kỳ, việc xây dựng đã bắt đầu với hệ thống đường ngầm ở trung tâm Sài Gòn, những khu phố buôn bán và siêu thị nhan nhản có những thứ gần như có sẵn ở Hoa Kỳ. Nhưng phản ứng xấu từ những sự phát triển bừa bãi và thiếu khoa học này là số xe cộ ngập tràn thành phố hiện nay chứa từ 10 đến 12 triệu người, và không khí bị ô nhiễm kinh hoàng từ kết quả đó. Thí dụ, đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa (tức đường Công Lý ngày xưa) có mức ô nhiễm không khí gây nguy hại trầm trọng đến sức khỏe người dân, nhất là trẻ em.

Sách Dữ Kiện của Cơ Quan Tình Báo Trung Ương Hoa Kỳ (CIA) cho biết ở Việt Nam hiện nay có nhiều bệnh truyền nhiễm gây nguy hại đến sức khỏe con người, bao gồm những bệnh như: tiêu chảy, viêm gan hepatitis A, sốt thương hàn, số xuất huyết "dangue", sốt rét, bệnh viêm não Nhật Bản, bệnh cúm gia cầm H5N1. Cũng trong danh sách này, Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ đã thêm những bệnh nguy hiểm khác như bệnh dại, bệnh tả, bệnh ô nhiễm vật thể phân tử và lao phổi. Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ cũng nói rằng "Những cơ sở y tế ở Việt Nam thường xuyên không hội đủ những tiêu chuẩn quốc tế và thiếu thuốc men cũng như dụng cụ y tế". Và "những dịch vụ cung cấp ý tế khẩn cấp nói một cách tổng quát là vô lương tâm, không tin cậy hoặc gần như không hiện hữu".

Liên quan đến những quyền tự do cá nhân ở Việt Nam, quý vị có thể vào trang điện tử Google để xem Bản Tường Trình Quan Sát Nhân Quyền năm 2013, sẽ biết sự đánh giá về tình trạng nhân quyền ở Việt Nam đen tối như thế nào.

Vấn đề giáo dục theo tiêu chuẩn quốc tế các bậc tiểu học và trung học có ở Sài Gòn, với học phí khoảng 2.000 Mỹ kim mỗi tháng cho một học sinh. Y tế theo tiêu chuẩn quốc tế cũng có, nếu gia đình nào có đủ khả năng tài chánh để chi trả. Gia đình trung bình ở Việt Nam không thể kham nổi những phí tổn này. So sánh với xã hội Hoa Kỳ, chính phủ mang lại một nền giáo dục miễn phí, hoặc với phí tổn vừa phải ở những trình độ học cao hơn, cung cấp bảo hiểm sức khỏe với lệ phí hợp lý, và đặc biệt là một hệ thống y tế không ăn hối lộ có thể làm nguy hại tính mạng cho nhiều bệnh nhân nghèo khổ.

Ở quận 7, Sài Gòn, khu phát triển Phú Mỹ Hưng làm cho một số người nhớ đến khu vực dân cư ở Singapore. Nơi đây có không khi tương đối trong lành, thoáng mát mà nhiều cư dân ở Sài Gòn ao ước, như một số dân Mỹ muốn sống ở khu Beverly Hills. Nếu thân nhân của người bảo lãnh sống ở khu Phú Mỹ Hưng thì có lẽ họ sẽ cảm thấy chẳng có gì cần thiết phải di dân sang Mỹ. Nhưng với quảng đại quần chúng bình thường, thành phố Sài Gòn quá đông người, ồn ào, môi trường ỗ nhiễm và thật không công tâm nếu người bảo lãnh lại đề nghị thân nhân của mình ở lại và nuôi con cái ở Việt Nam. Một người di dân Việt Nam trung bình ở California chắc chắn có đời sống sung túc hơn một người trung bình sống ở Việt Nam.

Chúng ta không thể nói về vấn đề này mà không nhắc đến các trẻ em. Chúng tôi được biết có một số cha mẹ thực sự không muốn di dân sang Mỹ, nhưng họ phải làm như vậy để con cái có thể học tại Hoa Kỳ. Ngay sau khi con cái hoàn tất việc học ở một trình độ nào đó, cha mẹ quay về sống ở Việt Nam. Nhưng một số người này chỉ có thể làm như vậy nếu họ còn có nhà và công việc làm ăn đang chờ họ quay về Việt Nam. Nhưng đối với nhiều phụ huynh khác, việc di dân sang Mỹ là việc di chuyển lâu dài và muốn hy sinh cá nhân mình vì tương lai của con, của cháu chắt sau này.

Những thế hệ di dân đầu tiên có cảm thấy đất nước mới là nhà của mình không? Nếu chúng ta nói đến thế hệ cha mẹ của người bảo lãnh thì câu trả lời có lẽ là "không". Cha mẹ sẽ luôn luôn cần trông cậy vào người bảo lãnh và ít khi ra khỏi nhà ngoại trừ cần thăm viếng những người di dân khác cùng tuổi tác với họ, hoặc đi chùa, nhà thờ, thánh thất, hoặc đi mua sắm với người bảo lãnh. Những di dân trẻ hơn có thể nói được tiếng Anh sẽ có cơ hội tốt hơn để hòa nhập vào xã hội Hoa Kỳ. Một số di dân trẻ hơn trong giai đoạn đầu chưa thông thạo Anh ngữ có thể cảm thấy lạc lõng đôi chút, nhưng họ sẽ quen dần trong tương lai.

Thế hệ thứ hai của người di dân dân gồm có những trẻ em sinh ở Hoa Kỳ hoặc đến Mỹ khi còn quá nhỏ nên rất dễ dàng thông thạo Anh ngữ. Việc hòa nhập vào xã hội với họ sẽ dễ dàng hơn nhưng thường cảm thấy vẫn còn bản chất Việt Nam hơn là trở thành một người Mỹ, vì ảnh hưởng thế hệ cha mẹ của họ. Những đứa con của họ (tức thế hệ di dân thứ ba) sẽ là nhưng người cảm thấy rất thoải mái khi sống ở Hoa Kỳ.

Nếu những người thân ở Việt Nam có tiền cho con cháu được học hành tốt đẹp, có tiền để trang trải những phí tổn chăm sóc sức khỏe thích hợp, có tiền để được sống trong một môi trường khỏe mạnh ở ngoại ô, thì có lẽ họ không nghĩ đến việc di dân. Nhưng đối với hầu hết những gia đình không có đủ khả năng thì việc di dân là con đường duy nhất để có được một đời sống tốt đẹp hơn cả về tinh thần lẫn vật chất.

Hai mươi năm trước, khi người ta di dân sang Mỹ, thân nhân tiễn đưa tại phi trường luôn luôn khóc. Họ có cảm tưởng sẽ không thể nhìn thấy người thân được nữa. Năm 2014, chúng ta có quá nhiều các phương tiện truyền thông điện tử như webcam, Skype, Tango, Viber…. Có rất nhiều phương tiện để liên lạc xuyên Thái Bình Dương.

Để tạm kết thúc loạt bài chủ đề đặc biệt này, chúng tôi xin trích dẫn một số cảm tưởng của một gia đình di dân sang Hoa Kỳ qua sự bảo lãnh diện chị em. Cảm tưởng được đăng trên một nhật báo điện tử ở Việt Nam, cũng là một sự kiện khá hiếm hoi: Người được bảo lãnh là một kỹ sư và vợ của anh là một dược sĩ. Cả hai vợ chồng được xem là rất thành công về mặt tài chánh ở Việt Nam. Nhưng cả hai đều không lưỡng lự bỏ lại tất cả để mang hai con sang Mỹ. Vừa qua đến Mỹ, hai vợ chồng sắn tay ngay vào những việc làm lao động tay chân và không hề than thở về sự mệt nhọc hàng ngày. Anh chị quên hẳn những ngày sống khá đầy đủ tiện nghi so với nhiều người dân khác khi còn ở Việt Nam. Anh nói gia tài duy nhất của vợ chồng anh là hai đứa con và việc giáo dục cho tương lai của chúng là quan trọng nhất. Thời gian trôi qua nhanh chóng, hai người con của anh đã tốt nghiệp đại học ở những trường nổi tiếng, và có việc làm được trả lương tương xứng. Giờ đây, khi tờ báo hỏi anh có hối tiếc khi rời khỏi Việt Nam không? Câu trả lời của anh rất nhanh và gọn: "Có gì để hối tiếc cơ chứ!".

Hỏi Đáp Di Trú

- Hỏi: Làm sao để những người ở Việt Nam có thể chuẩn bị kinh nghiệm khi trở thành người di dân mới ở Hoa Kỳ?

- Đáp: Không có lớp học nào hướng dẫn về đời sống mới ở Hoa Kỳ dành cho những người chuẩn bị ra đi. Những di dân trẻ đã có thể quen thuộc thuộc với đời sống của những nước khác, và cần phải cảm ơn những trang điện tử như Facebook và những hệ thống thông tin xã hội khác, cũng như truyền hình và phim ảnh đã giúp họ những kiến thức này. Tuy nhiên, ngoài những lợi điểm quá nhiều, vẫn có những khuyết điểm là một số thực tế của đời sống ngoại quốc sẽ không hoàn toàn giống như trong phim ảnh.

- Hỏi: Những di dân trong tương lai có thể làm gì để học hỏi những thực tế trong đời sống tại Hoa Kỳ?

- Đáp: Hãy sử dụng internet. Hầu hết những câu hỏi về đời sống tại Hoa Kỳ có thể được tìm thấy câu trả lời qua những email trao đổi trong nước Mỹ, hoặc trên những hệ thống thông tin xã hội, hoặc qua trang điện tử Google.

- Hỏi: Nếu một người di dân trở thành công dân Mỹ, nhưng quyết định về sống thường xuyên ở Việt Nam, luật lao động Việt Nam nói gì về việc thuê mướn công nhân ngoại quốc?

- Đáp: Nếu một người vẫn giữ quốc tịch Việt Nam, người này có thể được thuê mướn như một người Việt Nam hơn là người ngoại quốc. Người ngoại quốc chỉ có thể được thuê mướn trong một hoặc hai năm với nghề nghiệp như quản lý, giám đốc điều hành, chuyên viên và nhân viên kỹ thuật.


Quý độc giả muốn có thêm tin tức cập nhật, xin theo dõi qua báo chí hay đón nghe chương trình phát thanh và phát hình trực tiếp của chúng tôi vào mỗi tối thứ Tư từ 7-8PM, trên các làn sóng 1430AM, 1500AM, và 106.3FM và trên trang nhà của văn phòng: www.rmiodp.com, mục Radio. Hoặc liên lạc với một văn phòng Robert Mullins International gần nhất: Westminster: Văn Phòng mới trong khu Hanoi Plaza, trên đường Bolsa (714) 890-9933 , San Jose (408) 294-3888 (779 Story Road, phía trước Wal Mart), Sacramento (916) 393-3388 hay Email: info@rmiodp.com.
Thứ Hai, 13 Tháng Mười Một 2023(Xem: 3309)
(Robert Mullins International) Đây là ý kiến của một người về cách làm thế nào để một quốc gia có thể có một xã hội đa văn hóa thành công. Một xã hội đa văn hóa là gồm các nhóm dân tộc đa dạng; việc không hòa nhập và đối địch nhau sẽ dẫn đến tự sát tập thể. Chúng ta đang bắt đầu thấy điều đó ở Hoa Kỳ. Hoa Kỳ hiện đang chứng kiến sự gia tăng các tội ác bạo lực về phân biệt chủng tộc và tội ác có động cơ từ thù hận tôn giáo. Hoa Kỳ từng là một ví dụ hiếm hoi về một nền dân chủ đa chủng tộc nhưng đơn văn hóa thực sự có hiệu quả. Những người di dân đã cố gắng hết sức để có cơ hội thành công trong một xã hội tự do có chung một nền văn hóa. Nhiều con đường dẫn đến chủ nghĩa đa văn hóa thành công ở Hoa Kỳ đã bị lãng quên. Nếu muốn Hoa Kỳ tồn tại như chúng ta đã biết, chúng ta cần ghi nhớ một số điều
Thứ Hai, 06 Tháng Mười Một 2023(Xem: 3580)
(Robert Mullins International) Một trong những điều khiến người xin chiếu khán khó chịu nhất là sự chậm trễ trong quá trình phỏng vấn ở Lãnh sự. Những sự chậm trễ này có thể do nhiều lý do, bao gồm cả Giấy INA §221(g) và Duyệt xét hành chính. 1. Chậm trễ phỏng vấn lãnh sự là gì? Sự chậm trễ trong cuộc phỏng vấn lãnh sự xảy ra khi có sự chậm trễ trong việc lên lịch hoặc hoàn tất cuộc phỏng vấn xin chiếu khán. Sự chậm trễ có thể là do số lượng đơn xin quá lớn, số lượng nhân viên hạn chế hoặc các vấn đề khác tại Đại sứ quán hoặc Lãnh sự quán Hoa Kỳ. 2. Hiểu về INA §221(g) trên Mẫu giấy từ chối OF-194. Mục 221(g) của Luật Di trú đề cập đến các đơn xin chiếu khán mà đòi hỏi cần phải cung cấp thêm tài liệu hoặc cần phải duyệt xét thêm. Khi viên chức lãnh sự cấp giấy OF-194 mà có mục 221g trên đó, điều đó có nghĩa là: · 221g - Viên chức yêu cầu đương đơn cần nộp thêm giấy tờ, hoặc · Duyệt xét hành chính: Đơn xin yêu cầu cần thêm các động tác hành chính trước khi đưa ra quyết định.
Thứ Hai, 30 Tháng Mười 2023(Xem: 3728)
(Robert Mullins International) Sở Di Trú đã ra mắt công cụ tự phục vụ Thay đổi Địa chỉ (E-COA) mới để giúp công dân nước ngoài cập nhật địa chỉ của họ dễ dàng hơn. Tất cả công dân nước ngoài, kể cả người có thẻ xanh, phải thông báo cho Sở Di Trú về việc thay đổi địa chỉ trong vòng 10 ngày kể từ ngày chuyển đi. Ngoài ra, điều quan trọng là phải thông báo cho Sở Di Trú biết về việc thay đổi địa chỉ, đặc biệt nếu bạn có các hồ sơ đang chờ duyệt xét mà Sở Di Trú có thể cần liên hệ với bạn hoặc gửi thông tin cho bạn - chẳng hạn như Giấy phép Làm việc hoặc Thẻ xanh. Việc chỉ thông báo cho Bưu điện Hoa Kỳ (USPS) về địa chỉ mới là chưa đủ, vì USPS thường không chuyển thư từ Sở Di Trú cho bạn. Thay vào đó, thư sẽ được trả lại cho Sở Di Trú, và bạn sẽ phải yêu cầu Sở Di Trú tìm kiếm giấy tờ cho bạn. Sử dụng E-COA cho phép bạn cập nhật tất cả các vấn đề đang chờ duyệt xét bằng một ứng dụng.
Thứ Hai, 23 Tháng Mười 2023(Xem: 4182)
(Robert Mullins International) Tị nạn Asylum là một hình thức bảo vệ, cho phép người được lưu lại ở Hoa Kỳ, tránh bị trục xuất về một quốc gia, nơi họ lo sợ bị ngược đãi hoặc bị bức hại vì lý do danh tính, tôn giáo hoặc quan điểm chính trị của họ. Theo luật pháp Hoa Kỳ và luật pháp quốc tế, những người mà gặp nguy hiểm ở quê hương họ có quyền đến các quốc gia khác để tìm kiếm sự an toàn và được xem xét yêu cầu tị nạn của họ. Để xin tị nạn Asylum tại Hoa Kỳ, người đó phải có mặt tại Hoa Kỳ. Họ cũng phải đáp ứng được định nghĩa về người tị nạn. Theo luật, người tị nạn là người không thể hoặc không muốn trở về quốc gia của họ vì lo sợ bị bức hại. Sự bức hại có thể vì lý do chủng tộc, tôn giáo, quốc tịch, thành viên của một nhóm xã hội cụ thể hoặc quan điểm chính trị.
Thứ Hai, 16 Tháng Mười 2023(Xem: 3651)
(Robert Mullins International) Có một số tuyên bố trực tuyến cho rằng chính phủ Hoa Kỳ đang hỗ trợ những người di dân bất hợp pháp, bằng cách cấp cho họ 2.200 Mỹ kim mỗi tháng. Điều này là hoàn toàn không đúng sự thật. Những người vào Hoa Kỳ bất hợp pháp không có đủ điều kiện để được nhận hỗ trợ tiền mặt của liên bang. Người tị nạn refugee và những người được cấp quy chế tị nạn asylum, cũng như một số người di dân nhân đạo khác thì được hưởng một số phúc lợi công cộng nhất định, bao gồm hỗ trợ tiền mặt liên quan đến việc tái định cư ban đầu của họ, mặc dù số tiền này không cao tới 2.200 Mỹ kim mỗi tháng. Tin đồn này đến từ đâu? Từ một vị khách mời của cựu người dẫn chương trình tin tức Fox - Tucker Carlson. Vị khách mời này là một đại tá quân đội Hoa Kỳ đã nghỉ hưu đã tuyên bố rằng “mọi người mà được cho là người xin tị nạn, người di cư bất hợp pháp tràn qua biên giới ở Texas hoặc bất cứ nơi nào khác” đều được cấp một khoản hàng tháng là 2.200 Mỹ kim.
Thứ Hai, 09 Tháng Mười 2023(Xem: 3827)
(Robert Mullins International) Những người di dân Việt Nam vào Hoa Kỳ trước năm 1995 hầu hết đều là những người tị nạn chạy trốn bạo lực và đàn áp sau khi Chiến tranh Việt Nam kết thúc. Chính sách của chính phủ Hoa Kỳ là họ không phải bị trục xuất. Hoa Kỳ và Việt Nam đã ký một thỏa thuận vào năm 2008 để không trục xuất những người di dân này. Hiệp định năm 2008 nêu rõ: “Công dân Việt Nam không phải là đối tượng bị bắt trở về Việt Nam nếu đến Hoa Kỳ trước ngày 12/7/1995”. Vì vậy, chính phủ Việt Nam đã không cấp giấy thông hành để cho phép những người di dân như vậy bị trục xuất về Việt Nam. Nhưng vào năm 2017, dưới sự chỉ đạo của chính quyền Tổng thống trước, Cơ quan Thực thi Di trú và Hải quan (ICE) đã bắt đầu giam giữ một số người di dân trước năm 1995 trong khoảng thời gian dài. Chính phủ Hoa Kỳ đã bắt đầu gây áp lực, buộc chính phủ Việt Nam cấp giấy thông hành để những người di dân trước năm 1995 có thể được quay trở về Việt Nam.
Chủ Nhật, 01 Tháng Mười 2023(Xem: 4048)
(Robert Mullins International) Vào ngày 5 tháng 9 năm 2023, Bộ Ngoại giao đã ban hành luật cuối nhằm loại bỏ Luật Gánh nặng xã hội mới của chính quyền trước. Trước luật ban hành năm 2019 của tổng thống tiền nhiệm, chỉ có phúc lợi hỗ trợ bằng tiền mặt công để duy trì thu nhập hoặc biên chế hóa dài hạn bằng chi phí của chính phủ mới được xem xét trong quyết định về gánh nặng xã hội. Luật năm 2019 của Tổng thống tiền nhiệm đã mở rộng việc kiểm tra gánh nặng xã hội bằng cách thêm vào một số yếu tố khác để xem xét, định liệu một cá nhân có khả năng trở thành gánh nặng xã hội hay không. Luật năm 2019 làm dấy lên lo ngại về nỗi sợ hãi và sự nhầm lẫn, ngăn cản những người di dân, bao gồm cả trẻ em, tiếp cận các dịch vụ và các phúc lợi của chính phủ dành cho họ.
Thứ Bảy, 23 Tháng Chín 2023(Xem: 4186)
(Robert Mullins International) Vào ngày 13 tháng 9, một thẩm phán liên bang lại nói rằng DACA là bất hợp pháp. Tuy nhiên, thẩm phán đã không ra lệnh cho các quan chức chấm dứt chương trình và những người DACA hiện hữu vẫn có thể gia hạn trạng thái DACA của họ. DACA hiện bảo vệ 580,000 người di dân “Mơ ước” khỏi bị trục xuất và cho phép họ làm việc. Tại thời điểm này, không có đơn xin DACA mới nào được tiếp nhận. Thẩm phán Hanen, tại Tòa án quận phía Nam Texas của Hoa Kỳ, cho rằng những nỗ lực của ông Biden nhằm đưa chương trình DACA vào quy chế liên bang đã không được thực hiện theo luật. Trước đây, Thẩm phán Hanen cho rằng khi ông Obama tạo ra DACA vào năm 2012, việc đó cũng không được thực hiện theo luật. Chính quyền Biden dự kiến sẽ kháng cáo quyết định của Thẩm phán Hanen và vụ việc có thể sẽ được đưa lên Tòa án Tối cao. Đây sẽ là lần thứ ba DACA lên Tòa án Tối cao nhưng vấn đề vẫn chưa được giải quyết.
Thứ Hai, 18 Tháng Chín 2023(Xem: 4841)
(Robert Mullins International) Chính sách di dân của Hoa Kỳ có một số mục tiêu. Đầu tiên, nó giúp đoàn tụ cho các gia đình bằng cách tiếp nhận những người di dân mà đã có người thân ở Hoa Kỳ. Thứ hai, nó tiếp nhận lao động nước ngoài khi thiếu người lao động Hoa kỳ. Thứ ba, nó cung cấp nơi lánh cư cho những người nước ngoài đang phải đối mặt với sự đàn áp vì lý do chủng tộc, tôn giáo, quốc tịch, thành viên của một nhóm xã hội cụ thể hoặc quan điểm chính trị. Tất cả các luật di trú của Hoa Kỳ đều có trong Đạo luật di trú và Quốc tịch (INA). Bắt đầu từ những năm 1920, luật di trú của Hoa Kỳ đã ngăn cản việc di dân của hầu hết người dân từ Châu Á, Đông Âu và Nam Mỹ.
Thứ Hai, 11 Tháng Chín 2023(Xem: 4315)
(Robert Mullins International) Luật gánh nặng xã hội thời chính quyền trước đã có tác động lớn đến người di dân ở Hoa Kỳ. Theo luật đó, người di dân có thể bị từ chối thẻ xanh nếu họ sử dụng một số phúc lợi công cộng nhất định. Khi họ nghe về Luật gánh nặng xã hội này, nhiều gia đình di dân bắt đầu rút tên ra khỏi danh sách các phúc lợi công cộng mà họ và những đứa con sinh ra ở Hoa Kỳ của họ từng có đủ điều kiện được hưởng. Khi ông Biden trở thành tổng thống, ông đã bãi bỏ chính sách của chính quyền trước. Nói cách khác, Luật gánh nặng xã hội của chính quyền trước hiện không còn tồn tại. Nó đã đi và sẽ không trở lại. Người di dân không phải lo lắng về điều đó. Sở Di Trú Hoa Kỳ đã quay trở lại Luật gánh nặng xã hội cũ của năm 1999. Luật đó thoáng và nhân đạo hơn nhiều so với luật của chính quyền trước.