Tình Yêu Qua Ngưỡng Cửa Di Trú (Phần 1)

Thứ Hai, 04 Tháng Bảy 201600:17(Xem: 22644)
Tình Yêu Qua Ngưỡng Cửa Di Trú (Phần 1)
Mục Di Trú và Thăng Tiến Đời Sống do Văn Phòng tham vấn di trú Robert Mullins International đảm trách hằng tuần, nhằm cập nhật tin tức và phát huy kiến thức di trú, rất hữu ích cho quý vị quan tâm đến việc bảo lãnh thân nhân. Chủ đề trên đây cũng được thảo luận trực tiếp trên trang nhà,www.rmiodp.com  vào mỗi tối  thứ Tư, từ 7:00-8:00 giờ và phát thanh, phát hình 24/24 trên www.facebook.com/rmiodp

(Robert Mullins International) Người mẹ đưa người con trai đến Văn phòng Robert Mullins International (RMI) đúng hẹn. Bà nói rất muốn người con trai lấy vợ ở Việt Nam và muốn hỏi rõ thủ tục kết hôn. Người vợ tương lai, theo người mẹ, là con của một người bạn thân, rất ngoan và tháo vát. Người con trai ngồi hiền lành, chỉ cười. Vẻ mặt hớn hở pha chút lo lắng. Anh chỉ gặp người vợ sắp cưới trên những tấm hình được gửi từ bên kia bờ Thái Bình Dương. Anh sinh trưởng ở Mỹ, tốt nghiệp kỹ sư điện toán và đã ra làm việc được ít năm. Anh là người con trai duy nhất và trên anh còn ba người chị. Đó là một trong những nguyên nhân, theo người mẹ tâm sự, "rất muốn cháu lấy vợ Việt Nam".

Cũng như thế, có người phụ nữ chưa đến 40, đã ly dị chồng bên Mỹ. Chị muốn làm "Công hàm độc thân" để về Việt Nam kết hôn lần nữa. Người đàn bà còn rất trẻ này vẫn còn tin tưởng nhiều về cuộc hôn nhân sắp tới với người bạn xưa, chia sẻ: "Chẳng lẽ ở vậy mãi sao!".

Còn hơn thế nữa, khi một vị đứng tuổi góa bụa, trên 70 tuổi, đến văn phòng RMI an nhiên hỏi thăm những khó khăn khi ông muốn về Việt Nam lấy vợ, và người vợ tương lai này chỉ bằng tuổi con hay cháu ông. Ông cười hiền hòa, "cái số nó vậy", và giải thích như lời tâm tình: người bạn vong niên bên Việt Nam muốn cho người con gái "làm bạn đời săn sóc ông" như để trả một món nợ ân nghĩa không sao báo đáp....

Đó là những câu chuyện chồng chất theo năm tháng, thân quen, mà nhân viên của các văn phòng RMI chăm lo như việc nhà, theo dõi, đốc thúc và giải quyết với kết quả tốt đẹp nhất. Và việc kết hôn với "người bên Mỹ" là một trong những biến cố gia đình quan trọng đánh dấu hơn 41 năm sinh hoạt của cộng đồng người Việt tỵ nạn trên thế giới nói chung, và tại Hoa Kỳ nói riêng.

Hồ Sơ Bảo Lãnh Diện Vợ/Chồng Và Hôn Phu/Hôn Thê: Đậu Hay Rớt Là Một Vấn Đề Cần Thảo Luận

Trước khi một nhân viên Lãnh sự Hoa Kỳ có thể cấp bất cứ loại chiếu khán (visa) nào, họ cần bảo đảm một cách chắc chắn rằng tất cả những đòi hỏi đều phải được đáp ứng và không hề có chỉ dấu gian dối nào trong hồ sơ bảo lãnh. Dĩ nhiên, Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ đã đưa ra những hướng dẫn cụ thể để giúp cho nhân viên Lãnh sự có thể quyết định chính xác, nhưng trên thực tế, hầu hết những hồ sơ bảo lãnh đều dựa trên "sự cảm nhận" của nhân viên Lãnh sự khi duyệt xét từng hồ sơ. Mặc dù các nhân viên Lãnh sự khá quen thuộc với văn hóa Việt Nam, nhưng họ vẫn chỉ là người ngoại quốc và họ cũng không thể tránh được việc duyệt xét hồ hơ theo cái nhìn của người Hoa Kỳ. Hầu hết những hồ sơ được xem là có sức "thuyết phục" là những hồ sơ có phong cách tìm hiểu và kết hôn giống như người Hoa Kỳ.

Trong cái nhìn của các nhân viên lãnh sự Hoa Kỳ, nhiều người trong hồ sơ bảo lãnh, từ hai phía, thường đến với nhau, qua cuộc hôn nhân vì "lợi ích" nhiều hơn là vì mối tình chân thật. Người bảo lãnh ở Hoa Kỳ đi tìm ở người hôn phối thể hiện nét văn hóa Việt Nam, và người ở Việt Nam muốn tìm một đời sống tốt đẹp hơn ở nước ngoài. Đôi khi, cả hai người đều thú nhận rằng tình yêu chưa đến với họ qua cuộc hôn nhân.

Hơn một nửa cuộc hôn nhân tại Hoa Kỳ đã vác chiếu ra tòa ly dị. Nhân viên Lãnh sự biết rõ điều này, nhưng trong buổi phỏng vấn cấp chiếu khán, họ chú trọng đến mối liên hệ trước khi việc kết hôn xảy ra. Ở Hoa Kỳ, đôi tình nhân tự do quen biết, gặp gỡ nhau mà ít khi cần sự giúp đỡ của thân nhân, hay bè bạn. Họ biết nhau, gặp nhau trong nhiều tháng, hay nhiều năm, trước khi kết hôn. Họ dễ dàng gặp gỡ cha mẹ chồng, hoặc cha mẹ vợ tương lai. Họ thường có hoàn cảnh kinh tế tương đồng, vì thế không có những sự thay đổi lớn lao về tài chánh ảnh hưởng đến họ hay gia đình của họ, nếu họ kết hôn. Sau khi lấy nhau, họ cũng sẽ không phải di chuyển đến nơi xứ lạ quê người, phải học ngôn ngữ mới, và không phải bỏ lại sau lưng những người thân yêu nơi cố quốc.

Ngược lại, phần lớn người bảo lãnh diện vợ/chồng, hay diện hôn phu/hôn thê, đến Việt Nam chỉ trong thời gian ngắn để gặp người bạn tình, thường đã được họ hàng, hay bạn bè giới thiệu, chứ không do họ tự lựa chọn. Và kết quả cuộc hôn nhân với "người bên Mỹ" thường mang lại cho người hôn phối ở Việt Nam sự thay đổi lớn lao, thường là tốt đẹp hơn. Thêm vào đó, gia đình của người được bảo lãnh còn ở Việt Nam có thêm một điều ích lợi rất thực tế, đó là con cái của họ, sau khi sang định cư ở nước ngoài, sẽ gửi tiền về giúp đỡ, và có thể bảo lãnh cho họ đi di dân sau này.

Tuy nhiên, những nan đề chính khác mà người được bảo lãnh thường gặp phải là:

- Họ thường tổ chức nghi lễ đính hôn, hay kết hôn, quá đơn giản trong chuyến về Việt Nam đầu tiên, trước khi có cơ hội tìm hiểu người hôn phối nhiều hơn. Hình ảnh nộp trong lúc phỏng vấn đôi khi không đủ sức thuyết phục; chẳng hạn như hình ảnh người thiếu nữ không thoải mái khi phải cố gắng bày tỏ cảm xúc của mình với người đàn ông mà họ mới gặp lần đầu. Hoặc hình ảnh chụp nghi lễ đính hôn, hoặc lễ cưới, tiệc cưới, không thấy đông người, trông tẻ nhạt... dễ gây cho người phỏng vấn "cảm giác" hình ảnh chỉ chụp vài tấm cho "lấy có" để làm bằng chứng mà thôi. Thêm vào đó, hình ảnh nên có là những buổi đi chơi với nhau trước và sau "ngày vui". Người phỏng vấn sẽ cảm thông hơn khi thấy hình chụp đôi uyên ương đi hưởng "tuần trăng mật" nơi thơ mộng....

- Vì sự kiện có ý định gian dối trong việc bảo lãnh khá cao ở Việt Nam, nên đã tạo cho nhân viên Lãnh sự trong lúc phỏng vấn luôn có giả thuyết rằng sự liên hệ giữa hai bên "không trong sáng". Người được bảo lãnh sẽ phải bỏ nhiều công sức để vượt qua cái "cảm nhận" cố hữu đó.

- Nhân viên Lãnh sự biết rằng đã có một số người được bảo lãnh phải trả cho người bảo lãnh số tiền từ 30.000 mỹ kim trở lên để được định cư tại Hoa Kỳ.

- Vì có quá nhiều hồ sơ, nhân viên Lãnh sự gần như không bị giám sát bởi cấp cao hơn. Các nhân viên cao cấp ít khi tra hỏi về quyết định của nhân viên Lãnh sự có trách nhiệm phỏng vấn. Vấn đề kháng cáo thường không thành công vì nhân viên Lãnh sự có thể bỏ qua tất cả những chứng cớ liên hệ nếu họ "cảm thấy" hồ sơ này không "trong sáng".

Hỏi Đáp Di Trú

- Hỏi: Điều gì làm cho các nhân viên Lãnh sự nghi ngờ về mối liên hệ?

- Đáp: Một hồ sơ dễ dàng bị từ chối nếu người được bảo lãnh  không thể trả lời những câu hỏi liên quan đến đời sống của người bảo lãnh, hay về sự liên hệ giữa hai người, hay người được bảo lãnh trả lời những câu hỏi khác với những thông tin mà người bảo lãnh đã cung cấp cho văn phòng di trú. Người bảo lãnh và người được bảo lãnh phải cung cấp những thông tin giống nhau cho Lãnh sự. Và điều quan trọng là người được bảo lãnh KHÔNG BAO GIỜ thay đổi những gì đã cung cấp, nếu nghĩ rằng những điều khai khác đi sẽ làm cho nhân viên Lãnh sự dễ dàng chấp nhận hơn. Luôn luôn trả lời những sự kiện đã cung cấp, và nhớ chính xác những dữ kiện này.

- Hỏi: Những bằng chứng liện hệ nào có sức thuyết phục nhất đối với nhân viên Lãnh sự?

- Đáp: Hầu hết nhân viên Lãnh sự muốn biết bằng chứng về sự liên hệ kể từ hai người gặp nhau lần đầu tiên, hay kể từ khi hai người làm quen với nhau qua điện thoại, emails hay thư từ; cộng thêm những hình ảnh tổ chức lễ đính hôn hay kết hôn. Thẻ điện thoại là cách liên lạc tốt để tiết kiệm tiền điện thoại nhưng không tốt để chứng minh về sự liên hệ. Và, nếu đôi uyên ương "quá bận rộn", hay "quá mệt mỏi" để liên lạc với nhau thường xuyên, thì Lãnh sự cũng có thể sẽ "rất bận rộn" nên không thể lắng nghe những lời giải thích xin lỗi và hồ sơ sẽ bị từ chối.

- Hỏi: Phải làm gì dù khi đã có nhiều chứng minh và liên lạc thường xuyên, nhưng vẫn bị Lãnh sự bác hồ sơ?

- Đáp: Nếu Lãnh sự quyết định gửi đơn bảo lãnh trở về cơ quan di trú ở Hoa Kỳ, người bảo lãnh chắc chắn có cơ hội tốt hơn để thuyết phục cơ quan di trú về sự liên hệ trong sáng của mình. Các nhân viên di trú thường cởi mở hơn các nhân viên Lãnh sự ở Việt Nam. Tuy nhiên, thời gian chờ đợi để hồ sơ bảo lãnh được Lãnh sự ở Việt Nam hòan trả cho Sở di trú Hoa Kỳ, và Sở này gửi thư cho người bảo lãnh để yêu cầu giải thích và bổ túc những lý do bị Lãnh sự từ chối sẽ khá lâu. Chính vì thế, qúy vị cần chuẩn bị hồ sơ bảo lãnh thật kỹ lưỡng từ những lúc khởi đầu mối quan hệ với người được bảo lãnh ở Việt Nam.

Kính mời quý độc giả đón đọc chủ đề Di Trú và Thăng Tiến Đời Sống trên các báo chí Việt ngữ địa phương số cuối tuần, hoặc nghe trực tiếp chương trình của chúng tôi vào mỗi tối thứ Tư  trên các làn sóng: Bắc Cali 1430AM, 7:00-8:00, Nam Cali 106.3FM,7:00-7:30.  Phát lại  vào  Chủ Nhật từ 2:00-3:00PM trên làn sóng 1500AM, và 24/7 trên trang nhà: www.rmiodp.com. Hoặc www.facebook.com/rmiodp.  Hay liên lạc với văn phòng Robert Mullins International gần nhất: Westminster: (714) 890-9933 , San Jose (408) 294-3888, Sacramento (916) 393-3388, Rạng Mi: 84-3914-7638 hay Email: info@rmiodp.com
Thứ Hai, 23 Tháng Mười 2023(Xem: 3817)
(Robert Mullins International) Tị nạn Asylum là một hình thức bảo vệ, cho phép người được lưu lại ở Hoa Kỳ, tránh bị trục xuất về một quốc gia, nơi họ lo sợ bị ngược đãi hoặc bị bức hại vì lý do danh tính, tôn giáo hoặc quan điểm chính trị của họ. Theo luật pháp Hoa Kỳ và luật pháp quốc tế, những người mà gặp nguy hiểm ở quê hương họ có quyền đến các quốc gia khác để tìm kiếm sự an toàn và được xem xét yêu cầu tị nạn của họ. Để xin tị nạn Asylum tại Hoa Kỳ, người đó phải có mặt tại Hoa Kỳ. Họ cũng phải đáp ứng được định nghĩa về người tị nạn. Theo luật, người tị nạn là người không thể hoặc không muốn trở về quốc gia của họ vì lo sợ bị bức hại. Sự bức hại có thể vì lý do chủng tộc, tôn giáo, quốc tịch, thành viên của một nhóm xã hội cụ thể hoặc quan điểm chính trị.
Thứ Hai, 16 Tháng Mười 2023(Xem: 3297)
(Robert Mullins International) Có một số tuyên bố trực tuyến cho rằng chính phủ Hoa Kỳ đang hỗ trợ những người di dân bất hợp pháp, bằng cách cấp cho họ 2.200 Mỹ kim mỗi tháng. Điều này là hoàn toàn không đúng sự thật. Những người vào Hoa Kỳ bất hợp pháp không có đủ điều kiện để được nhận hỗ trợ tiền mặt của liên bang. Người tị nạn refugee và những người được cấp quy chế tị nạn asylum, cũng như một số người di dân nhân đạo khác thì được hưởng một số phúc lợi công cộng nhất định, bao gồm hỗ trợ tiền mặt liên quan đến việc tái định cư ban đầu của họ, mặc dù số tiền này không cao tới 2.200 Mỹ kim mỗi tháng. Tin đồn này đến từ đâu? Từ một vị khách mời của cựu người dẫn chương trình tin tức Fox - Tucker Carlson. Vị khách mời này là một đại tá quân đội Hoa Kỳ đã nghỉ hưu đã tuyên bố rằng “mọi người mà được cho là người xin tị nạn, người di cư bất hợp pháp tràn qua biên giới ở Texas hoặc bất cứ nơi nào khác” đều được cấp một khoản hàng tháng là 2.200 Mỹ kim.
Thứ Hai, 09 Tháng Mười 2023(Xem: 3469)
(Robert Mullins International) Những người di dân Việt Nam vào Hoa Kỳ trước năm 1995 hầu hết đều là những người tị nạn chạy trốn bạo lực và đàn áp sau khi Chiến tranh Việt Nam kết thúc. Chính sách của chính phủ Hoa Kỳ là họ không phải bị trục xuất. Hoa Kỳ và Việt Nam đã ký một thỏa thuận vào năm 2008 để không trục xuất những người di dân này. Hiệp định năm 2008 nêu rõ: “Công dân Việt Nam không phải là đối tượng bị bắt trở về Việt Nam nếu đến Hoa Kỳ trước ngày 12/7/1995”. Vì vậy, chính phủ Việt Nam đã không cấp giấy thông hành để cho phép những người di dân như vậy bị trục xuất về Việt Nam. Nhưng vào năm 2017, dưới sự chỉ đạo của chính quyền Tổng thống trước, Cơ quan Thực thi Di trú và Hải quan (ICE) đã bắt đầu giam giữ một số người di dân trước năm 1995 trong khoảng thời gian dài. Chính phủ Hoa Kỳ đã bắt đầu gây áp lực, buộc chính phủ Việt Nam cấp giấy thông hành để những người di dân trước năm 1995 có thể được quay trở về Việt Nam.
Chủ Nhật, 01 Tháng Mười 2023(Xem: 3759)
(Robert Mullins International) Vào ngày 5 tháng 9 năm 2023, Bộ Ngoại giao đã ban hành luật cuối nhằm loại bỏ Luật Gánh nặng xã hội mới của chính quyền trước. Trước luật ban hành năm 2019 của tổng thống tiền nhiệm, chỉ có phúc lợi hỗ trợ bằng tiền mặt công để duy trì thu nhập hoặc biên chế hóa dài hạn bằng chi phí của chính phủ mới được xem xét trong quyết định về gánh nặng xã hội. Luật năm 2019 của Tổng thống tiền nhiệm đã mở rộng việc kiểm tra gánh nặng xã hội bằng cách thêm vào một số yếu tố khác để xem xét, định liệu một cá nhân có khả năng trở thành gánh nặng xã hội hay không. Luật năm 2019 làm dấy lên lo ngại về nỗi sợ hãi và sự nhầm lẫn, ngăn cản những người di dân, bao gồm cả trẻ em, tiếp cận các dịch vụ và các phúc lợi của chính phủ dành cho họ.
Thứ Bảy, 23 Tháng Chín 2023(Xem: 3879)
(Robert Mullins International) Vào ngày 13 tháng 9, một thẩm phán liên bang lại nói rằng DACA là bất hợp pháp. Tuy nhiên, thẩm phán đã không ra lệnh cho các quan chức chấm dứt chương trình và những người DACA hiện hữu vẫn có thể gia hạn trạng thái DACA của họ. DACA hiện bảo vệ 580,000 người di dân “Mơ ước” khỏi bị trục xuất và cho phép họ làm việc. Tại thời điểm này, không có đơn xin DACA mới nào được tiếp nhận. Thẩm phán Hanen, tại Tòa án quận phía Nam Texas của Hoa Kỳ, cho rằng những nỗ lực của ông Biden nhằm đưa chương trình DACA vào quy chế liên bang đã không được thực hiện theo luật. Trước đây, Thẩm phán Hanen cho rằng khi ông Obama tạo ra DACA vào năm 2012, việc đó cũng không được thực hiện theo luật. Chính quyền Biden dự kiến sẽ kháng cáo quyết định của Thẩm phán Hanen và vụ việc có thể sẽ được đưa lên Tòa án Tối cao. Đây sẽ là lần thứ ba DACA lên Tòa án Tối cao nhưng vấn đề vẫn chưa được giải quyết.
Thứ Hai, 18 Tháng Chín 2023(Xem: 4434)
(Robert Mullins International) Chính sách di dân của Hoa Kỳ có một số mục tiêu. Đầu tiên, nó giúp đoàn tụ cho các gia đình bằng cách tiếp nhận những người di dân mà đã có người thân ở Hoa Kỳ. Thứ hai, nó tiếp nhận lao động nước ngoài khi thiếu người lao động Hoa kỳ. Thứ ba, nó cung cấp nơi lánh cư cho những người nước ngoài đang phải đối mặt với sự đàn áp vì lý do chủng tộc, tôn giáo, quốc tịch, thành viên của một nhóm xã hội cụ thể hoặc quan điểm chính trị. Tất cả các luật di trú của Hoa Kỳ đều có trong Đạo luật di trú và Quốc tịch (INA). Bắt đầu từ những năm 1920, luật di trú của Hoa Kỳ đã ngăn cản việc di dân của hầu hết người dân từ Châu Á, Đông Âu và Nam Mỹ.
Thứ Hai, 11 Tháng Chín 2023(Xem: 3917)
(Robert Mullins International) Luật gánh nặng xã hội thời chính quyền trước đã có tác động lớn đến người di dân ở Hoa Kỳ. Theo luật đó, người di dân có thể bị từ chối thẻ xanh nếu họ sử dụng một số phúc lợi công cộng nhất định. Khi họ nghe về Luật gánh nặng xã hội này, nhiều gia đình di dân bắt đầu rút tên ra khỏi danh sách các phúc lợi công cộng mà họ và những đứa con sinh ra ở Hoa Kỳ của họ từng có đủ điều kiện được hưởng. Khi ông Biden trở thành tổng thống, ông đã bãi bỏ chính sách của chính quyền trước. Nói cách khác, Luật gánh nặng xã hội của chính quyền trước hiện không còn tồn tại. Nó đã đi và sẽ không trở lại. Người di dân không phải lo lắng về điều đó. Sở Di Trú Hoa Kỳ đã quay trở lại Luật gánh nặng xã hội cũ của năm 1999. Luật đó thoáng và nhân đạo hơn nhiều so với luật của chính quyền trước.
Thứ Hai, 28 Tháng Tám 2023(Xem: 4174)
Đây là phần cuối của loạt bài “Người di dân có du nhập văn hóa của họ không?” Hiện nay, một nghiên cứu mới cho thấy rằng, những người Mỹ da trắng sinh ra ở miền Nam chuyển đến các vùng khác của Hoa Kỳ, đã gây ảnh hưởng đến văn hóa ở nơi ở mới của họ như thế nào. Sau năm 1900, có một cuộc di cư lớn của những người da đen miền Nam đến các thành phố công nghiệp miền Bắc. Nhưng cũng có một số lượng lớn hơn những người da trắng miền Nam chuyển đến các vùng khác của đất nước, không phải đến các thành phố Đông Bắc mà thay vào đó là các bang ở phía Tây. Ở một số quận của các bang phía tây, nếu tỷ lệ người da trắng miền Nam tăng lên, thì những quận đó có nhiều khả năng ủng hộ ông Donald Trump, phản đối phá thai, xây dựng nhà thờ Tin lành, nghe nhạc đồng quê và thậm chí thích gà nướng hơn pizza.
Thứ Hai, 28 Tháng Tám 2023(Xem: 3988)
(Robert Mullins International) Các nền kinh tế định hướng tăng trưởng đòi hỏi tiết kiệm và đầu tư. Sẵn sàng tiết kiệm tiền là một đặc điểm văn hóa được tiếp tục trong các nhóm người chuyển đến nơi ở mới. Con cháu của những người di dân có hành vi tiết kiệm rất giống với nơi quê cha đất tổ của họ. Nhìn vào các khoản đóng góp hưu trí của những đứa trẻ người di dân sinh ra ở Mỹ. Các nghiên cứu cho thấy rằng những điều này tương tự như những gì xảy ra ở các quốc gia tổ tiên của họ. Hai nhóm người di dân quan tâm nhất đến việc đóng góp cho quỹ hưu trí của họ là Ireland và Ấn Độ. Tiếp theo là những người di dân đến từ Hà Lan và Thái Lan.
Thứ Hai, 21 Tháng Tám 2023(Xem: 4078)
(Robert Mullins International) Đây là phần một của loạt bài gồm có 3 phần. Một số nghiên cứu và sách vở đã cho chúng ta biết về những người di dân, những người trong nội bộ quốc gia hoặc từ quốc gia này sang quốc gia khác, đã truyền tải một số yếu tố văn hóa nhất định của họ cho con cháu của họ như thế nào. Nói cách khác, có những hành vi văn hóa nhất định không được đồng hóa hoàn toàn và không bị bỏ lại ở quê hương của họ. Điều này đã được quan sát thấy trong quá trình di dân của người miền Nam da trắng ở Hoa Kỳ, cũng như trong số những người di dân từ nước ngoài.