Vụ Jose Padilla Kháng Án Tòa Tiểu Bang Kentucky Và Vấn Đề Trục Xuất

Thứ Tư, 07 Tháng Tư 201000:00(Xem: 100414)
Vụ Jose Padilla Kháng Án Tòa Tiểu Bang Kentucky Và Vấn Đề Trục Xuất
Mục di trú và bảo lãnh do Văn Phòng tham vấn di trú Robert Mullins International đảm trách hằng tuần, nhằm mục đích thông báo các tin tức thời sự liên quan đến vấn đề đoàn tụ gia đình, rất hữu ích cho quý vị nào quan tâm đến việc bảo lãnh thân nhân. Mọi đóng góp ý kiến xin liên lạc 1-800-411-0495

Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ đã phán rằng các luật sự phải nói cho thân chủ biết rằng người di dân, nếu phạm tội và khai nhận là có tội, họ có thể bị trục xuất khỏi Hoa Kỳ. Quyền được biết sự thật này là quyền hiến định của luật pháp Hoa Kỳ.

Phán quyết của Tối Cao Pháp Viện có nghĩa là các luật sư thụ lý những hồ sơ hình sự phải nói cho thân chủ của họ biết rõ rằng nếu khai nhận phạm tội có thể đưa đến việc trục xuất. Nói cách khác, luật sư phải biết hậu quả nghiêm trọng của luật di trú nếu khai nhận phạm tội và phải giải thích rõ ràng điều này cho thân chủ của mình.

Phán quyết trên là một yêu cầu quan trọng cho các luật sư cần phải cố vấn các thân chủ di dân - không có quốc tịch Mỹ - về hậu quả nghiêm trọng của việc khai nhận tội. Một số tiểu bang đã áp dụng yêu cầu này. Và một số tiểu bang khác lại cho rằng phí tổn cung cấp luật sư cho những bị can di dân nghèo sẽ lên rất cao vì tiểu bang cũng phải trả tiền cho những lời cố vấn di trú của luật sư.

Phán quyết kể trên phát xuất từ vụ án của Jose Padilla, một di dân đến từ nước Honduras. Padilla đã xin tòa thượng thẩm hủy bỏ lời thú tội liên quan đến ma túy năm 2001 tại tiểu bang Kentucky, đã đưa đến việc ông ta sắp bị trục xuất. Ông Padilla, một thường trú nhân sống ở Hoa Kỳ hơn 40 năm, nói rằng ông đã hỏi luật sư của mình nếu nhận tội sẽ ảnh hưởng ra sao đến diện di trú. Và luật sư của ông nói rằng không ảnh hưởng gì cả! Luật sư của Padilla nói không đúng và Padilla hiện đối diện với thảm trạng bị trục xuất.

Trong vụ án của Padilla, một luật sư khác đã kháng án lên Tối Cao Pháp Viện rằng việc cung cấp thông tin không đúng cho ông Padilla đã vi phạm quyền Tu Chính Án Thứ Sáu, đó là quyền được "giúp đỡ hữu hiệu của luật sư".

Tối Cao Pháp Viện đã chấp thuận việc kháng án này. Họ nói rằng trách nhiệm của chúng ta theo Hiến pháp là phải bảo đảm rằng không một bị can hình sự nào phải gánh chịu những lời cố vấn luật pháp thiếu hiểu biết và sai lạc. Điều này áp dụng cho cả công dân Mỹ và các thường trú nhân. Một luật sư phải thông báo cho thân chủ của họ biết rằng nếu khai nhận tội sẽ đưa đến thảm cảnh bị trục xuất. Điều này là một yêu cầu quan trọng vì việc trục xuất sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến thân nhân của người bị trục xuất đang sinh sống hợp pháp tại Hoa Kỳ.

Sự việc kể trên ảnh hưởng ra sao đến cộng đồng người Việt Nam? Vào ngày 22 tháng Giêng năm 2008, chính phủ Hoa Kỳ và nhà cầm quyền Việt Nam đã ký một hiệp ước hồi hương, cho phép Hoa Kỳ trục xuất các thường trú nhân Việt Nam bị phạm tội, là những người nhập cư Hoa Kỳ sau ngày 12 tháng 7 năm 1995. Đây cũng là những người đã nhận được án lệnh cuối cùng bị trục xuất.

Truớc khi có vụ án Padilla, có hai hướng giải quyết cho các thường trú nhân Việt Nam bị đối diện với lệnh trục xuất. Hướng giải quyết đầu tiên là cấp chiếu khán loại U cho một số

nạn nhân của một số tội ác nào đó. Hướng giải quyết thứ hai là yêu cầu tòa hủy bỏ một bản án hình đã bị xử nhưng dựa trên những lý do không có hiệu lực về mặt pháp lý.

Tuy nhiên, trước khi có vụ án Padilla, luật pháp không cho biết rõ ràng là ai sẽ được hưởng hai hướng giải quyết kể trên. Nhưng với vụ án Padilla, luật pháp đã rõ ràng hơn: nếu luật sư của qúy vị không đưa lời khuyên nào hoặc cho những lời khuyên không chính xác dẫn đến hậu quả di trú do lời khai nhận tội của qúy vị, và vì thế quyền hiến định của qúy vị bị vi phạm. Qúy vị có thể xin ra tòa và yêu cầu hủy bỏ bản án đã tuyên.

Trước khi Hoa Kỳ và Việt Nam ký kết hiệp định hồi hương, một số luật sư đôi khi đã đã cho những lời cố vấn sai lạc mang lại hậu quả di trú nguy hại cho một số thường trú nhân Việt Nam phạm tội hình sự. Nhiều bị cáo được khuyên rằng "cứ nhận tội đi, vì Việt Nam sẽ không nhận nếu Hoa Kỳ muốn trục xuất qúy vị". Theo Tối Cao Pháp Viện, kể từ ngày 31 tháng 3 năm 2010, những loại cố vấn sai lạc này sẽ vi phạm Tu Chính Án Thứ Sáu của qúy vị nhằm bảo đảm quyền được "giúp đỡ hiệu quả của luật sư".

Vì thế, các thường trú nhân người Việt Nam đã có lệnh bị trục xuất vì phạm tội nên tìm ngay những sự cố vấn pháp lý đúng đắn, nếu họ hội đủ điều kiện được bồi thường sau vụ án vì những lời khuyên không chính xác từ phía luật sư của họ. Nếu họ thực sự nhận những lời khuyên sai lạc hoặc không đầy đủ từ luật sư, họ sẽ có cơ hội được xóa án và đảo ngược quyết định trục xuất.

 

Hỏi Đáp Di Trú

- Hỏi: Năm 1999, luật sư của tôi khuyên tôi không kháng lại tội danh của mình. Luật sư cũng nói rằng tôi không nên lo âu về việc bị trục xuất vì chính quyền Việt Nam không nhận người Việt bị trả về. Luật mới sẽ có thể giúp tôi không?

 - Đáp: Đúng, điều xảy ra cho ông cũng gần giống như vụ án mới đây của ông Padilla và Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ nói rằng quyền Tu Chính Án Thứ Sáu của ông Padilla đã bị vi phạm, vì luật sư của ông ta không cho những lời khuyên chính xác hậu quả di trú sẽ mang lại cho ông ta.

 - Hỏi: Tôi đã khai nhận một tội trong qúa khứ và tôi được lệnh phải rời khỏi Hoa Kỳ. Vậy luật mới này có giúp được gì cho tôi không?

 - Đáp: Điều này còn tùy thuộc vào việc luật sư đại diện cho ông và những gì luật sư đã cố vấn cho ông về hậu quả di trú qua lời thú nhận tôi của ông. Nếu luật sư không cố vấn gì hết, ông sẽ có cơ hội xin mở lại hồ sơ phạm tội của mình.

 - Hỏi: Nếu tôi kháng án hồ sơ phạm tội của tôi và thắng án, lệnh trục xuất của tôi có được thay đổi không?

 - Đáp: Không, việc thay đổi lệnh trục xuất do vị chánh án di trú quyết đînh. Sau khi ông thắng được hồ sơ phạm tội, ông phải nộp đơn thỉnh cầu cứu xét hồ sơ với vị chánh án di trú.- Hỏi: Tôi đã phạm một tội hình sự trong quá khứ và mới đây được lệnh sẽ bị trục xuất khỏi Hoa Kỳ. Làm sao tôi có thể biết việc này ảnh hưởng đến tôi ra sao?

Quý độc giả muốn có thêm tin tức cập nhật, xin theo dõi qua báo chí hay đón nghe chương trình phát thanh của chúng tôi vào mỗi tối thứ Tư từ 7PM và sáng Chủ Nhật từ 11:00AM, trên các làn sóng 1430AM, 1500AM, và 106.3FM. Hoặc liên lạc với một văn phòng Robert Mullins International gần nhất: Westminster: (714) 890-9933 , San Jose (408) 294-3888 (duy nhất tại đường số 1, không phải đường Monterey), Oakland-San Francisco: (510) 533-8228, Sacramento (916) 393-3388 hay Email: info@rmiodp.com.

 

Thứ Hai, 23 Tháng Mười 2023(Xem: 3824)
(Robert Mullins International) Tị nạn Asylum là một hình thức bảo vệ, cho phép người được lưu lại ở Hoa Kỳ, tránh bị trục xuất về một quốc gia, nơi họ lo sợ bị ngược đãi hoặc bị bức hại vì lý do danh tính, tôn giáo hoặc quan điểm chính trị của họ. Theo luật pháp Hoa Kỳ và luật pháp quốc tế, những người mà gặp nguy hiểm ở quê hương họ có quyền đến các quốc gia khác để tìm kiếm sự an toàn và được xem xét yêu cầu tị nạn của họ. Để xin tị nạn Asylum tại Hoa Kỳ, người đó phải có mặt tại Hoa Kỳ. Họ cũng phải đáp ứng được định nghĩa về người tị nạn. Theo luật, người tị nạn là người không thể hoặc không muốn trở về quốc gia của họ vì lo sợ bị bức hại. Sự bức hại có thể vì lý do chủng tộc, tôn giáo, quốc tịch, thành viên của một nhóm xã hội cụ thể hoặc quan điểm chính trị.
Thứ Hai, 16 Tháng Mười 2023(Xem: 3303)
(Robert Mullins International) Có một số tuyên bố trực tuyến cho rằng chính phủ Hoa Kỳ đang hỗ trợ những người di dân bất hợp pháp, bằng cách cấp cho họ 2.200 Mỹ kim mỗi tháng. Điều này là hoàn toàn không đúng sự thật. Những người vào Hoa Kỳ bất hợp pháp không có đủ điều kiện để được nhận hỗ trợ tiền mặt của liên bang. Người tị nạn refugee và những người được cấp quy chế tị nạn asylum, cũng như một số người di dân nhân đạo khác thì được hưởng một số phúc lợi công cộng nhất định, bao gồm hỗ trợ tiền mặt liên quan đến việc tái định cư ban đầu của họ, mặc dù số tiền này không cao tới 2.200 Mỹ kim mỗi tháng. Tin đồn này đến từ đâu? Từ một vị khách mời của cựu người dẫn chương trình tin tức Fox - Tucker Carlson. Vị khách mời này là một đại tá quân đội Hoa Kỳ đã nghỉ hưu đã tuyên bố rằng “mọi người mà được cho là người xin tị nạn, người di cư bất hợp pháp tràn qua biên giới ở Texas hoặc bất cứ nơi nào khác” đều được cấp một khoản hàng tháng là 2.200 Mỹ kim.
Thứ Hai, 09 Tháng Mười 2023(Xem: 3488)
(Robert Mullins International) Những người di dân Việt Nam vào Hoa Kỳ trước năm 1995 hầu hết đều là những người tị nạn chạy trốn bạo lực và đàn áp sau khi Chiến tranh Việt Nam kết thúc. Chính sách của chính phủ Hoa Kỳ là họ không phải bị trục xuất. Hoa Kỳ và Việt Nam đã ký một thỏa thuận vào năm 2008 để không trục xuất những người di dân này. Hiệp định năm 2008 nêu rõ: “Công dân Việt Nam không phải là đối tượng bị bắt trở về Việt Nam nếu đến Hoa Kỳ trước ngày 12/7/1995”. Vì vậy, chính phủ Việt Nam đã không cấp giấy thông hành để cho phép những người di dân như vậy bị trục xuất về Việt Nam. Nhưng vào năm 2017, dưới sự chỉ đạo của chính quyền Tổng thống trước, Cơ quan Thực thi Di trú và Hải quan (ICE) đã bắt đầu giam giữ một số người di dân trước năm 1995 trong khoảng thời gian dài. Chính phủ Hoa Kỳ đã bắt đầu gây áp lực, buộc chính phủ Việt Nam cấp giấy thông hành để những người di dân trước năm 1995 có thể được quay trở về Việt Nam.
Chủ Nhật, 01 Tháng Mười 2023(Xem: 3770)
(Robert Mullins International) Vào ngày 5 tháng 9 năm 2023, Bộ Ngoại giao đã ban hành luật cuối nhằm loại bỏ Luật Gánh nặng xã hội mới của chính quyền trước. Trước luật ban hành năm 2019 của tổng thống tiền nhiệm, chỉ có phúc lợi hỗ trợ bằng tiền mặt công để duy trì thu nhập hoặc biên chế hóa dài hạn bằng chi phí của chính phủ mới được xem xét trong quyết định về gánh nặng xã hội. Luật năm 2019 của Tổng thống tiền nhiệm đã mở rộng việc kiểm tra gánh nặng xã hội bằng cách thêm vào một số yếu tố khác để xem xét, định liệu một cá nhân có khả năng trở thành gánh nặng xã hội hay không. Luật năm 2019 làm dấy lên lo ngại về nỗi sợ hãi và sự nhầm lẫn, ngăn cản những người di dân, bao gồm cả trẻ em, tiếp cận các dịch vụ và các phúc lợi của chính phủ dành cho họ.
Thứ Bảy, 23 Tháng Chín 2023(Xem: 3891)
(Robert Mullins International) Vào ngày 13 tháng 9, một thẩm phán liên bang lại nói rằng DACA là bất hợp pháp. Tuy nhiên, thẩm phán đã không ra lệnh cho các quan chức chấm dứt chương trình và những người DACA hiện hữu vẫn có thể gia hạn trạng thái DACA của họ. DACA hiện bảo vệ 580,000 người di dân “Mơ ước” khỏi bị trục xuất và cho phép họ làm việc. Tại thời điểm này, không có đơn xin DACA mới nào được tiếp nhận. Thẩm phán Hanen, tại Tòa án quận phía Nam Texas của Hoa Kỳ, cho rằng những nỗ lực của ông Biden nhằm đưa chương trình DACA vào quy chế liên bang đã không được thực hiện theo luật. Trước đây, Thẩm phán Hanen cho rằng khi ông Obama tạo ra DACA vào năm 2012, việc đó cũng không được thực hiện theo luật. Chính quyền Biden dự kiến sẽ kháng cáo quyết định của Thẩm phán Hanen và vụ việc có thể sẽ được đưa lên Tòa án Tối cao. Đây sẽ là lần thứ ba DACA lên Tòa án Tối cao nhưng vấn đề vẫn chưa được giải quyết.
Thứ Hai, 18 Tháng Chín 2023(Xem: 4449)
(Robert Mullins International) Chính sách di dân của Hoa Kỳ có một số mục tiêu. Đầu tiên, nó giúp đoàn tụ cho các gia đình bằng cách tiếp nhận những người di dân mà đã có người thân ở Hoa Kỳ. Thứ hai, nó tiếp nhận lao động nước ngoài khi thiếu người lao động Hoa kỳ. Thứ ba, nó cung cấp nơi lánh cư cho những người nước ngoài đang phải đối mặt với sự đàn áp vì lý do chủng tộc, tôn giáo, quốc tịch, thành viên của một nhóm xã hội cụ thể hoặc quan điểm chính trị. Tất cả các luật di trú của Hoa Kỳ đều có trong Đạo luật di trú và Quốc tịch (INA). Bắt đầu từ những năm 1920, luật di trú của Hoa Kỳ đã ngăn cản việc di dân của hầu hết người dân từ Châu Á, Đông Âu và Nam Mỹ.
Thứ Hai, 11 Tháng Chín 2023(Xem: 3921)
(Robert Mullins International) Luật gánh nặng xã hội thời chính quyền trước đã có tác động lớn đến người di dân ở Hoa Kỳ. Theo luật đó, người di dân có thể bị từ chối thẻ xanh nếu họ sử dụng một số phúc lợi công cộng nhất định. Khi họ nghe về Luật gánh nặng xã hội này, nhiều gia đình di dân bắt đầu rút tên ra khỏi danh sách các phúc lợi công cộng mà họ và những đứa con sinh ra ở Hoa Kỳ của họ từng có đủ điều kiện được hưởng. Khi ông Biden trở thành tổng thống, ông đã bãi bỏ chính sách của chính quyền trước. Nói cách khác, Luật gánh nặng xã hội của chính quyền trước hiện không còn tồn tại. Nó đã đi và sẽ không trở lại. Người di dân không phải lo lắng về điều đó. Sở Di Trú Hoa Kỳ đã quay trở lại Luật gánh nặng xã hội cũ của năm 1999. Luật đó thoáng và nhân đạo hơn nhiều so với luật của chính quyền trước.
Thứ Hai, 28 Tháng Tám 2023(Xem: 4187)
Đây là phần cuối của loạt bài “Người di dân có du nhập văn hóa của họ không?” Hiện nay, một nghiên cứu mới cho thấy rằng, những người Mỹ da trắng sinh ra ở miền Nam chuyển đến các vùng khác của Hoa Kỳ, đã gây ảnh hưởng đến văn hóa ở nơi ở mới của họ như thế nào. Sau năm 1900, có một cuộc di cư lớn của những người da đen miền Nam đến các thành phố công nghiệp miền Bắc. Nhưng cũng có một số lượng lớn hơn những người da trắng miền Nam chuyển đến các vùng khác của đất nước, không phải đến các thành phố Đông Bắc mà thay vào đó là các bang ở phía Tây. Ở một số quận của các bang phía tây, nếu tỷ lệ người da trắng miền Nam tăng lên, thì những quận đó có nhiều khả năng ủng hộ ông Donald Trump, phản đối phá thai, xây dựng nhà thờ Tin lành, nghe nhạc đồng quê và thậm chí thích gà nướng hơn pizza.
Thứ Hai, 28 Tháng Tám 2023(Xem: 3995)
(Robert Mullins International) Các nền kinh tế định hướng tăng trưởng đòi hỏi tiết kiệm và đầu tư. Sẵn sàng tiết kiệm tiền là một đặc điểm văn hóa được tiếp tục trong các nhóm người chuyển đến nơi ở mới. Con cháu của những người di dân có hành vi tiết kiệm rất giống với nơi quê cha đất tổ của họ. Nhìn vào các khoản đóng góp hưu trí của những đứa trẻ người di dân sinh ra ở Mỹ. Các nghiên cứu cho thấy rằng những điều này tương tự như những gì xảy ra ở các quốc gia tổ tiên của họ. Hai nhóm người di dân quan tâm nhất đến việc đóng góp cho quỹ hưu trí của họ là Ireland và Ấn Độ. Tiếp theo là những người di dân đến từ Hà Lan và Thái Lan.
Thứ Hai, 21 Tháng Tám 2023(Xem: 4083)
(Robert Mullins International) Đây là phần một của loạt bài gồm có 3 phần. Một số nghiên cứu và sách vở đã cho chúng ta biết về những người di dân, những người trong nội bộ quốc gia hoặc từ quốc gia này sang quốc gia khác, đã truyền tải một số yếu tố văn hóa nhất định của họ cho con cháu của họ như thế nào. Nói cách khác, có những hành vi văn hóa nhất định không được đồng hóa hoàn toàn và không bị bỏ lại ở quê hương của họ. Điều này đã được quan sát thấy trong quá trình di dân của người miền Nam da trắng ở Hoa Kỳ, cũng như trong số những người di dân từ nước ngoài.