Đẻ Thế: Một Chọn Lựa Của Những Người Không Có Con LỊCH CẤP CHIẾU KHÁN DI DÂN TÍNH ĐẾN THÁNG 01-2012

Thứ Tư, 14 Tháng Mười Hai 201100:00(Xem: 111328)
Đẻ Thế: Một Chọn Lựa Của Những Người Không Có Con LỊCH CẤP CHIẾU KHÁN DI DÂN TÍNH ĐẾN THÁNG 01-2012
Mục di trú và bảo lãnh do Văn Phòng tham vấn di trú Robert Mullins International đảm trách hằng tuần, nhằm mục đích thông báo các tin tức thời sự liên quan đến vấn đề đoàn tụ gia đình, rất hữu ích cho quý vị nào quan tâm đến việc bảo lãnh thân nhân.

Nhiều cặp vợ chồng không có con đã nghĩ đến việc nhận con nuôi. Khi nghiên cứu tiến trình thực hiện điều này, họ nhận thấy rằng việc nhận con nuôi, ở Hoa Kỳ hoặc ở ngoại quốc, rất tốn kém, mất nhiều thời gian và thủ tục dễ mang lại sự thất vọng. Hơn nữa, vào thời điểm này không thể xin con nuôi ở Việt Nam. Đó là lý do tại sao nhiều cặp vợ chồng cuối cùng đã quyết định dùng dịch vụ nhờ một người mẹ đẻ thế.

Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ vừa phổ biến bản báo cáo về dịch vụ đẻ thế đang phát triển rầm rộ trong kỹ nghệ du lịch y tế ở nước Ấn Độ. Hơn 350 y viện ở Ấn Độ cung cấp các thương vụ đẻ thế. Khách hàng của họ từ những cặp vợ chồng khó sinh con, đến những cá nhân muốn có con, và những cặp đồng tính. Trong hầu hết những hồ sơ đẻ thế đang được giải quyết ở các văn phòng lãnh sự Hoa Kỳ ở Ấn Độ, người nam công dân Hoa Kỳ cung cấp tinh trùng để dùng phương pháp thụ tinh bằng ống nghiệm với một trứng của một phụ nữ hiến tặng. Trứng này thường là của một phụ nữ Ấn Độ vô danh cung cấp. Khi việc thụ thai có kết quả sẽ được cấy phôi thai vào tử cung của người mẹ đẻ thế.

Nếu một trong số người cha hoặc người mẹ đẻ thế là công dân Mỹ, đứa con có thể được công nhận là công dân Hoa Kỳ.

Việc duyệt xét quốc tịch trong những trường hợp này phức tạp hơn những hồ sơ Khai Báo Việc Sinh Để Ở Ngoại Quốc truyền thống, có nghĩa là những cặp vợ chồng hợp pháp sinh con ở ngoại quốc. Nhiều báo cáo cho rằng việc giả mạo rất nhiều và những giấy tờ chứng minh khó tin tưởng được. Nhiều y viện quản lý trứng và tinh trùng được hiến tặng rất bê bối. Những giấy tờ hợp pháp giả mạo như khai sinh và hồ sơ y tế rất dễ dàng mua ở bên ngoài. Vì thế, các nhân viên lãnh sự thường yêu cầu thử nghiệm quan hệ huyết thống DNA để xác nhận sự liên hệ ruột thịt của đứa con với ít nhất của người cha hoặc người mẹ.

Cho đến nay vẫn chưa có hiệp định quốc tế nào liên quan đến dịch vụ dùng những người mẹ đẻ thế. Một số quốc gia cho phép việc này với điều kiện việc đẻ thế không được trả công gì hết. Một số nước khác không cho phép dịch vụ được thực hiện ở bất cứ hình thức nào. Và luật lệ ở Hoa Kỳ thì mỗi tiểu bang quy định khác nhau về vấn đề này.

Việt Nam cấm việc đẻ thế dù có trả công hoặc không. Lý do cấm dịch vụ đẻ thế chưa bao giờ được công bố, nhưng một số báo cáo mới đây cho thấy một số phụ nữ Việt Nam đã được đưa sang Thái Lan bất hợp pháp với mục đích thực hiện dịch vụ mẹ đẻ thế.

Ấn Độ là nơi rất thịnh hành về việc sắp xếp các dịch vụ đẻ thế, nhưng Thái Lan thì rất gần Việt Nam, và Thái Lan lại có những trung tâm ý tế có tiêu chuẩn quốc tế. Mặc dù chúng tôi chưa biết đã có ai đã từng thử thực hiện chưa, nhưng một giả thuyết có thể thực hiện được nếu một công dân Hoa Kỳ đưa người mẹ đẻ thế từ Việt Nam sang Thái Lan hợp pháp để thực hiện việc Thụ tinh trong ống nghiệm. Sau phương pháp thụ tinh hoàn tất, người phụ nữ sẽ trở về Việt Nam và chờ ngày sinh nở. Tiếp theo là việc báo cáo và xin đăng ký khai sinh cho đứa con với Lãnh sự Hoa Kỳ, và việc yêu cầu thử DNA đoan chắc là sẽ xảy ra. Sau đó, đứa con sẽ hợp lệ nhận Sổ thông hành Hoa Kỳ và đoàn tụ với gia đình ở Mỹ.

Nhiều văn phòng dịch vụ đẻ thế đề nghị việc chọn một thành viên trong gia đình hay bạn thân để giúp làm mẹ đẻ thế. Điều quan trọng trong vấn đề này là sự tin tưởng nhau hoàn toàn. Ở Việt Nam không có luật lệ nào hay hợp đồng nào bảo đảm về việc đẻ thế. Nếu người mẹ đẻ thế không chịu trao lại việc săn sóc đứa con thì chẳng có áp lực nào có thể can thiệp được.

Hön nữa, những người tặng tinh trùng trong tương lai phải tin chắc rằng họ hội đủ những quy định về việc mang lại công dân Mỹ cho đứa con của họ.

LỊCH CẤP CHIẾU KHÁN DI DÂN TÍNH ĐẾN THÁNG 01-2012
 -IR-1, IR-2, IR-5:Vợ, con vị thành niên, cha mẹ của công dân Hoa Kỳ, luôn luôn hiệu lực
- Diện F-1: Các con độc thân, trên 20 tuổi, của công dân Mỹ: Ngày 15/10/2004 (Tăng 6 tuần)
- Diện F2A: Vợ hoặc chồng và các con nhỏ của thường trú nhân: Ngày 22/04/2009 (Tăng 4 tuần)
- Diện F2B: Các con độc thân, trên 20 tuổi, của thường trú nhân: Ngày 08/09/2003 (Tăng 3 tuần)
- Diện F-3: Các con đã lập gia đình của công dân Mỹ. Ngày 01/11/2001 (Tăng 3 tuần)
- Diện F-4: Anh chị em của công dân Mỹ: Ngày 15/08/2000 (Tăng 4 tuần)
-Tu Sĩ-SR: Luôn luôn hiệu lực


Hỏi Đáp Di Trú

- Hỏi: Những quy định căn bản nào mà người công dân Mỹ phải có để có thể mang lại quốc tịch Mỹ cho con của họ sinh ở ngoại quốc nhưng ngoài giá thú?

- Đáp: Những yêu cầu căn bản là người cha phải là công dân Mỹ và trước khi đứa con sinh ra đời, người cha phải có mặt thực sự ở Mỹ, và thời gian sinh sống tổng cộng phải trên 5 năm.

- Hỏi: Người cha có thể dùng những bằng chứng nào để xác nhận đã hiện diện ở Mỹ trong 5 năm?

- Những bằng chứng có thể được chấp nhận là hồ sơ trường học, các bản khai thuế hàng năm, hồ sơ làm việc, v.v...

Quý độc giả muốn có thêm tin tức cập nhật, xin theo dõi qua báo chí hay đón nghe chương trình phát thanh của chúng tôi vào mỗi tối thứ Tư từ 7PM và sáng Chủ Nhật từ 11:00AM, trên các làn sóng 1430AM, 1500AM, và 106.3FM. Hoặc liên lạc với một văn phòng Robert Mullins International gần nhất: Westminster: Văn Phòng mới trong khu Hanoi Plaza, trên đường Bolsa (714) 890-9933 , San Jose (408) 294-3888 (779 Story Road, phía trước Wal Mart ), Sacramento (916) 393-3388 hay Email: info@rmiodp.com.
Thứ Hai, 11 Tháng Chín 2023(Xem: 4457)
(Robert Mullins International) Luật gánh nặng xã hội thời chính quyền trước đã có tác động lớn đến người di dân ở Hoa Kỳ. Theo luật đó, người di dân có thể bị từ chối thẻ xanh nếu họ sử dụng một số phúc lợi công cộng nhất định. Khi họ nghe về Luật gánh nặng xã hội này, nhiều gia đình di dân bắt đầu rút tên ra khỏi danh sách các phúc lợi công cộng mà họ và những đứa con sinh ra ở Hoa Kỳ của họ từng có đủ điều kiện được hưởng. Khi ông Biden trở thành tổng thống, ông đã bãi bỏ chính sách của chính quyền trước. Nói cách khác, Luật gánh nặng xã hội của chính quyền trước hiện không còn tồn tại. Nó đã đi và sẽ không trở lại. Người di dân không phải lo lắng về điều đó. Sở Di Trú Hoa Kỳ đã quay trở lại Luật gánh nặng xã hội cũ của năm 1999. Luật đó thoáng và nhân đạo hơn nhiều so với luật của chính quyền trước.
Thứ Hai, 28 Tháng Tám 2023(Xem: 4674)
Đây là phần cuối của loạt bài “Người di dân có du nhập văn hóa của họ không?” Hiện nay, một nghiên cứu mới cho thấy rằng, những người Mỹ da trắng sinh ra ở miền Nam chuyển đến các vùng khác của Hoa Kỳ, đã gây ảnh hưởng đến văn hóa ở nơi ở mới của họ như thế nào. Sau năm 1900, có một cuộc di cư lớn của những người da đen miền Nam đến các thành phố công nghiệp miền Bắc. Nhưng cũng có một số lượng lớn hơn những người da trắng miền Nam chuyển đến các vùng khác của đất nước, không phải đến các thành phố Đông Bắc mà thay vào đó là các bang ở phía Tây. Ở một số quận của các bang phía tây, nếu tỷ lệ người da trắng miền Nam tăng lên, thì những quận đó có nhiều khả năng ủng hộ ông Donald Trump, phản đối phá thai, xây dựng nhà thờ Tin lành, nghe nhạc đồng quê và thậm chí thích gà nướng hơn pizza.
Thứ Hai, 28 Tháng Tám 2023(Xem: 4471)
(Robert Mullins International) Các nền kinh tế định hướng tăng trưởng đòi hỏi tiết kiệm và đầu tư. Sẵn sàng tiết kiệm tiền là một đặc điểm văn hóa được tiếp tục trong các nhóm người chuyển đến nơi ở mới. Con cháu của những người di dân có hành vi tiết kiệm rất giống với nơi quê cha đất tổ của họ. Nhìn vào các khoản đóng góp hưu trí của những đứa trẻ người di dân sinh ra ở Mỹ. Các nghiên cứu cho thấy rằng những điều này tương tự như những gì xảy ra ở các quốc gia tổ tiên của họ. Hai nhóm người di dân quan tâm nhất đến việc đóng góp cho quỹ hưu trí của họ là Ireland và Ấn Độ. Tiếp theo là những người di dân đến từ Hà Lan và Thái Lan.
Thứ Hai, 21 Tháng Tám 2023(Xem: 4570)
(Robert Mullins International) Đây là phần một của loạt bài gồm có 3 phần. Một số nghiên cứu và sách vở đã cho chúng ta biết về những người di dân, những người trong nội bộ quốc gia hoặc từ quốc gia này sang quốc gia khác, đã truyền tải một số yếu tố văn hóa nhất định của họ cho con cháu của họ như thế nào. Nói cách khác, có những hành vi văn hóa nhất định không được đồng hóa hoàn toàn và không bị bỏ lại ở quê hương của họ. Điều này đã được quan sát thấy trong quá trình di dân của người miền Nam da trắng ở Hoa Kỳ, cũng như trong số những người di dân từ nước ngoài.
Thứ Ba, 15 Tháng Tám 2023(Xem: 4414)
(Robert Mullins International) Dự luật của thượng nghị sĩ Ohio là nhằm mục đích ngăn chặn hàng trăm ngàn trường hợp quá hạn chiếu khán xảy ra mỗi năm. Dự luật sẽ yêu cầu người nước ngoài có chiếu khán không di dân, chẳng hạn như khách du lịch và sinh viên, phải trả hàng ngàn Mỹ kim trước khi vào Hoa Kỳ. Dự luật được đề xuất có tên là Đạo luật Rời khỏi đúng hạn (The Timely Departure Act). Nó sẽ không áp dụng cho các công dân từ 40 quốc gia hiện đang ở trong chương trình được Miễn chiếu khán. Ngoài các quốc gia châu Âu, các quốc gia châu Á duy nhất nằm trong Chương trình được miễn chiếu khán là Brunei, Nhật Bản, Nam Hàn, Singapore và Đài Loan. Những người xin chiếu khán không di dân từ tất cả các quốc gia khác ở châu Á sẽ phải trả từ 5,000 đến 15,000 Mỹ kim dưới dạng tiền đặt cọc hoặc thanh toán bằng tiền mặt. Số tiền đó sau đó sẽ được trả lại cho họ, nếu họ rời khỏi Hoa kỳ theo các điều khoản của chiếu khán, hoặc nếu khi họ trở thành thường trú nhân tại Hoa Kỳ.
Thứ Ba, 08 Tháng Tám 2023(Xem: 4618)
(Robert Mullins International) Việc sử dụng trí tuệ nhân tạo ("AI") của Sở Di Trú có thể giúp việc duyệt xét đơn EB5 dễ dàng hơn không? Liệu sự thay đổi từ người thẩm định sang AI có ý nghĩa khách quan, hợp lý hơn không? Việc sử dụng AI tiếp tục mở rộng ở các chính phủ trong và ngoài nước, nhưng một số chuyên gia cảnh báo rằng đó không phải là giải pháp một thứ dùng được chung cho tất cả. Trên thực tế, nó có thể không hoàn toàn phù hợp với các chương trình đầu tư định cư như EB5. Thật vậy, sử dụng AI mà không chú ý đến bối cảnh có thể là một sai lầm lớn. Việc duyệt xét chương trình EB-5 tại Sở Di trú liên quan đến các quy trình rất phức tạp đối với những người duyệt xét không phải là con người. Hiện tại, AI không có khả năng xem xét tất cả các yếu tố cần thiết để đưa ra quyết định hợp lệ. Việc đánh giá các hồ sơ di dân là rất chủ quan và chỉ một số yêu cầu của đơn xin có thể được AI đảm trách thỏa đáng.
Chủ Nhật, 30 Tháng Bảy 2023(Xem: 5254)
(Robert Mullins International) Công dân Hoa Kỳ sẽ KHÔNG cần chiếu khán để đến Châu Âu bắt đầu từ năm 2024. Tuy nhiên, trước khi đi du lịch, họ sẽ phải điền vào một mẫu đơn trực tuyến. Nó được gọi là European Travel Information and Authorization (Hệ thống Khai báo thông tin và Cấp phép Du lịch Châu Âu). Điều này là cần thiết cho mỗi du khách và sẽ có phí $8.00 USD cho mỗi du khách. Người Mỹ vẫn sẽ dễ dàng đi du lịch đến Châu Âu sau khi họ hoàn thành đơn đăng ký trực tuyến đơn giản này. Hệ thống Khai báo thông tin và Cấp phép Du lịch Châu Âu không phải là chiếu khán. Đó là một quy trình ghi danh trực tuyến đơn giản và việc chấp thuận sẽ được gửi qua email cho du khách. Du khách sẽ chỉ cần điền vào mẫu đơn trực tuyến với các thông tin cá nhân cơ bản, kế hoạch du lịch và lịch sử du lịch, cùng với các câu hỏi bảo mật.
Thứ Hai, 24 Tháng Bảy 2023(Xem: 4995)
(Robert Mullins International) Theo một cuộc khảo sát gần đây, nhiều người Mỹ gốc Việt ủng hộ Đảng Cộng hòa hơn so với những người Mỹ gốc Á khác. Tuy nhiên, thế hệ trẻ người Mỹ gốc Việt có thể thay đổi điều đó. Trong nhiều thập kỷ, dân số người Mỹ gốc Á ngày càng tăng của Hoa Kỳ có xu hướng bỏ phiếu cho Đảng Dân chủ. Nhưng luôn có một ngoại lệ: những người Mỹ gốc Việt từng trải qua chiến tranh. Họ giống như những người Cuba thoát khỏi chủ nghĩa cộng sản ở quê nhà, và họ coi đảng Cộng hòa chống cộng nhiều hơn và ít cải cách hơn đảng Dân chủ. Sáu mươi tám phần trăm cử tri người Mỹ gốc Việt từ 50 tuổi trở lên được xác định là thuộc Đảng Cộng hòa, 58% cử tri gốc Việt trẻ tuổi được xác định là thuộc Đảng Dân chủ. Nhiều người Mỹ gốc Việt thuộc thế hệ lớn tuổi có chung một lịch sử di dân duy nhất mà việc này có tác động mạnh mẽ đến tình cảm chính trị của họ. Sau khi Hoa Kỳ rút khỏi Việt Nam vào năm 1973, hàng trăm ngàn người di cư cảm thấy bị đe dọa bởi chế độ Cộng sản đã chạy sang Mỹ.
Thứ Hai, 17 Tháng Bảy 2023(Xem: 4748)
(Robert Mullins International) Hoa Kỳ luôn là một xã hội có nhiều cộng đồng người di dân. Nhưng di trú vẫn còn là một chủ đề được tranh luận và chưa được hiểu rõ. Khi các chính trị gia nói về di dân, bình luận của họ thường dựa trên những chuyện tưởng tượng, thay vì thực tế. Dưới đây là một số tưởng tượng hoặc quan niệm sai lầm: Lầm tưởng số 1: Người di dân không muốn học tiếng Anh. Hoa Kỳ là nơi có nhiều người di dân quốc tế hơn bất kỳ quốc gia nào khác. Gần 20% tổng số người di dân toàn cầu cư trú tại Hoa Kỳ. Ngày nay, người di dân và con cái của họ học tiếng Anh với tốc độ tương đương với người Ý, người Đức và người Đông Âu di cư vào đầu những năm 1800. Và từ năm 2009 đến 2019, tỷ lệ người di dân có thể nói tiếng Anh “rất tốt” đã tăng từ 57% lên 62%.
Chủ Nhật, 09 Tháng Bảy 2023(Xem: 5176)
(Robert Mullins International) Theo luật hiện hành, nếu những đương đơn xin Điều chỉnh Tình trạng (Thẻ Xanh) đi du lịch bên ngoài Hoa Kỳ mà không có Giấy tái nhập cảnh tạm thời (Advance Parole), Sở Di Trú coi như đơn của họ bị từ bỏ. Kết quả là lãng phí thời gian, tiền bạc và cần phải bắt đầu lại quy trình cấp thẻ xanh từ đầu. Hơn nữa, để có được Giấy tái nhập cảnh tạm thời có thể là một quá trình khó khăn. Thời gian chờ đợi để được phê duyệt Giấy tái nhập cảnh tạm thời đã bị kéo dài lên đến 9, 10 và thậm chí là hơn 24 tháng. Chính sách này đã cản trở những đương đơn xin Điều chỉnh đi thăm người thân bị bệnh hoặc tham dự các sự kiện gia đình quan trọng ở nước ngoài. Bộ Nội An (DHS) hiện đề xuất loại bỏ yêu cầu xin Giấy tái nhập cảnh tạm thời cho những người có đơn Điều chỉnh đang chờ duyệt xét và chấm dứt luật tự động từ bỏ đối với các chuyến du lịch quốc tế.