Con Đường Đến Với Chiếu Khán Di Dân LỊCH CẤP CHIẾU KHÁN DI DÂN THÁNG 8-2012

Thứ Tư, 11 Tháng Bảy 201200:00(Xem: 117410)
Con Đường Đến Với Chiếu Khán Di Dân LỊCH CẤP CHIẾU KHÁN DI DÂN THÁNG 8-2012
Mục di trú và bảo lãnh do Văn Phòng tham vấn di trú Robert Mullins International đảm trách hằng tuần, nhằm mục đích thông báo các tin tức thời sự liên quan đến vấn đề đoàn tụ gia đình, rất hữu ích cho quý vị nào quan tâm đến việc bảo lãnh thân nhân. Đề tài trên đây cũng được thảo luận trực tiếp trên trang nhà của văn phòng, www.rmiodp.com, tiết mục Radio, vào mỗi tối thứ Tư , từ 7:00-8:00 giờ.

"Sự Phân Loại" Chiếu Khán (Visa): Khi Sở di trú Hoa Kỳ chấp thuận đơn bảo lãnh thì đây mới chỉ là một thành tựu nhỏ của người bảo lãnh và những người được bảo lãnh ở Việt Nam. Sự chấp thuận của Sở di trú chỉ chứng minh rằng họ đã nhận được giấy tờ cho thấy mối quan hệ hợp lệ và hợp pháp. Thí dụ, một đơn bảo lãnh được chấp thuận chỉ cho thấy rằng theo những giấy tờ đã nộp, người A là cha của người B, hoặc người C là vợ hay chồng của người D. Nhưng đây chỉ là bước đầu tiên, bước dễ nhất trong đơn xin chiếu khán di dân. Việc chấp thuận một tờ đơn bảo lãnh không có nghĩa là việc cấp chiếu khán được nhiên sẽ xảy ra.

Sở di trú Hoa Kỳ không phải là cơ quan đưa ra sự chấp thuận sau cùng trong một hồ sơ xin chiếu khán di dân. Nếu Tòa Lãnh sự Hoa Kỳ ở Sài Gòn quyết định rằng chiếu khán không thể cấp, họ có thể gửi trả đơn bảo lãnh về lại Sở di trú ở Hoa Kỳ. Và, nếu chiếu khán được cấp, khi người di dân đến phi trường ở Hoa Kỳ, nhân viên Kiểm Soát Biên Phòng và Thuế Quan (tức Custom and Border Patrol) có thể từ chối không cho nhập cảnh và thu giữ sổ thông hành nếu họ tin rằng những người di dân này không có quyền nhập cảnh Hoa Kỳ.

*

Phân Loại Bảo Lãnh Diện Gia Đình: Có hai loại bảo lãnh diện liên hệ gia đình: Đó là diện Thân Thuộc Trực Hệ và Loại Bảo Lãnh Theo Thứ Tụ Ưu Tiên. Vợ/chồng, hoặc cha/me, hay con độc thân dưới 21 tuổi của công dân Mỹ thuộc diện chiếu khán ưu tiên luôn có sẵn và được xếp vào diện bảo lãnh Thân Thuộc Trực Hệ (tức Immediate Relative, gọi tắt là IR).

Trong Loại Bảo Lãnh Theo Thứ Tự Ưu Tiên, một công dân Mỹ có thể bảo lãnh con độc thân trên 21 tuổi, hoặc con đã lập gia đình cùng với người hôn phối và các con độc thân, dưới 21 tuổi; hoặc anh, chị, em cùng với người hôn phối và con.

Thường trú nhân có thể bảo lãnh người hôn phối và các con độc thân. Những người con khác đã lập gia đình của Thường trú nhân sẽ không được cấp chiếu khán. Đây cũng là lý do tại sao một số người sẽ chấp nhận sống độc thân, hoặc che dấu việc hôn nhân, hoặc ly dị giả.

Sở di trú USCIS sẽ quyết định xem những bằng chứng của người bảo lãnh nộp có thành lập mối quan hệ đã khai nhận như vậy hay không. Nếu Sở di trú ở Hoa Kỳ từ chối đơn bảo lãnh diện gia đình, người bảo lãnh có quyền kháng cáo với Ban Kháng Cáo Di Trú (tức Board of Immgration Appeals) trực thuộc Phòng Điều Hành Duyệt Xét Di Trú (tức Executive Office of Immigration Review).

Đơn Xin Chiếu Khán và Phỏng Vấn Chiếu Khán: Các nhân viên lãnh sự của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ phỏng vấn các đương dơn xin chiếu khán tại Tòa Đại sứ hoặc Tòa Lãnh sự ở hải ngoại. Họ rất thận trọng và có thể từ chối cấp chiếu khán và rất khó để có thể vượt qua nổi quyết định từ chối này. Đuơng đầu với việc từ chối chiếu khán là việc đương nhiên phải làm, nhưng kết qủa thành công thường chiếm một tỷ lệ rất nhỏ nhoi.

Nếu Sở di trú đã chấp thuận đơn bảo lãnh ở Hoa Kỳ, tại sao nhân viên phỏng vấn tại Tòa Lãnh sự Hoa Kỳ lại có thể từ chối hồ sơ này? Thực tế cho thấy nhân viên Lãnh sự có thẩm quyền từ chối hồ sơ nếu họ cảm thấy rằng Sở di trú không có được những thông tin quan trọng khi đơn bảo lãnh được chấp thuận ở Hoa Kỳ. Sở di trú ở Hoa Kỳ chỉ nhìn giấy tờ xác nhận mối quan hệ mà thôi, chẳng hạn như giấy khai sinh, hôn thú hay giấy ly dị. Các nhân viên lãnh sự thì lại yêu cầu rất nhiều bằng chứng liên hệ, chẳng hạn như số lượng và phương cách liên lạc giữa người bảo lãnh và người được bảo lãnh, số lần người bảo lãnh về Việt Nam và những bằng chứng được thành lập qua cuộc điều tra gia đình ở Việt Nam chẳng hạn.

Nếu người bảo lãnh và người được bảo lãnh không thể cung cấp bằng chứng thuyết phục trong vòng một năm sau cuộc phỏng vấn, Tòa Lãnh sự sẽ trả hồ sơ về cho Sở di trú ở Hoa Kỳ để duyệt xét lại và có thể hủy bỏ hồ sơ. Sau đó, ngườ bảo lãnh có cơ hội nộp thêm bằng chứng cho Sở di trú. Nếu Sở di trú bằng lòng với những giải thích và bằng chứng, đơn bảo lãnh sẽ được tái-chấp-thuận và được gửi về lại cho Tòa Lãnh sự tái phỏng vấn.

Đơn Nhập Cảnh: Quyết định sau cùng cho phép người di dân được nhập cảnh Hoa Kỳ hay không là khi họ đến nơi nhập cảnh. Nhân viên Kiểm Soát Biên Phòng và Thuế Quan có quyền từ chối nhập cảnh với nhiều lý do khác nhau, chẳng hạn như các thành viên trong gia đình đến Mỹ nhưng không đi cùng với người được bảo lãnh chính. Trong vài trường hợp khác, người di dân bị từ chối nhập cảnh phải quay về quê hương ngay lập tức, hoặc chỉ được luu lại một thời gian ngắn trong khi Sở di trú điều tra hồ sơ.

Kết Luật: Với những di dân đã vượt qua những trở ngại trên hành trình đến Hoa Kỳ, Thẻ Xanh của họ sẽ được gửi đến địa chỉ đã cho trong một vài tháng sau khi nhập cảnh Hoa Kỳ.

Cần lưu ý rằng không một hồ sơ di trú nào có thể bảo đảm 100% và bất cứ văn phòng hoặc cá nhân nào đưa ra lời bảo đảm này là những người không thành thật. Vì có qúa nhiều những yếu tố không thể đoán trước được. Việc từ chối có thể đến từ Sở di trú ngay từ lúc đầu hoặc vào giai đoạn cuối duyệt xét hồ sơ, và có thể đến từ Tòa Lãnh sự trong giai đoạn nửa chừng duyệt xét hồ sơ. Việc từ chối có thể xảy ra vì thiếu giấy tờ, nộp sai đơn, hoặc do sử cảm nhận của nhân viên lãnh sự về mối liên hệ không chân thật.

Việc trợ giúp nhiều kinh nghiệm và chuyên nghiệp trong tiến trình lập hồ sơ bảo lãnh di trú là cách tốt nhất mang lại thành công cho hồ sơ bảo lãnh. Việc từ chối hồ sơ bảo lãnh sẽ càng gặp nhiều nguy cơ khi người bảo lãnh chọn lầm những dịch vụ thiếu kinh nghiệm, vô trách nhiệm và mời gọi với lệ phí rẻ. Những nơi làm dịch vụ này không hề lưu trữ hồ sơ, không theo dõi hồ sơ và không có uy tín với Tòa Lãnh sự Hoa Kỳ ở Việt Nam.

LỊCH CẤP CHIẾU KHÁN DI DÂN TÍNH ĐẾN THÁNG 8-2012
 -IR-1, IR-2, IR-5:Vợ, con vị thành niên, cha mẹ của công dân Hoa Kỳ, luôn luôn hiệu lực
- Diện F-1: Các con độc thân, trên 20 tuổi, của công dân Mỹ: Ngày 01/08/2005 (Tăng 3 tuần)
- Diện F2A: Vợ hoặc chồng và các con nhỏ của thường trú nhân: Ngày 15/03/2010 (Tăng 4 tuần)
- Diện F2B: Các con độc thân, trên 20 tuổi, của thường trú nhân: Ngày 22/06/2004 (Tăng 7 tuần)
- Diện F-3: Các con đã lập gia đình của công dân Mỹ. Ngày 01/05/2002 (Tăng 2 tuần)
- Diện F-4: Anh chị em của công dân Mỹ: Ngày 15/02//2001 (Tăng 3 tuần)
-Tu Sĩ-SR: Luôn luôn hiệu lực


Hỏi Đáp Di Trú

Hỏi: Những bằng chứng hỗ trợ nên kèm chung với hồ sơ bảo lãnh khi nộp cho Sở di trú ở Hoa Kỳ, hay khi người được bảo lãnh được phỏng vấn với Tòa Lãnh sự Mỹ ở Sài Gòn?

- Đáp: Trong hầu hết những trường hợp, Sở di trú ở Hoa Kỳ chỉ cần những giấy tờ liên hệ căn bản, chẳng hạn như khai sinh, giấy hôn thú, giấy ly dị hoặc giấy khai tử. Người bảo lãnh diện hôn phu-thê (fianceé) phải nộp bằng chứng gặp nhau trực tiếp ở Việt Nam. Trong cuộc phỏng vấn chiếu khán ở Sài Gòn, nhân viên Lãnh sự sẽ cần xem toàn bộ bằng chứng liên hệ, bao gồm các bằng chứng liên lạc, thăm viếng và hình ảnh ngày cử hành lễ đính hôn, lễ cưới, cũng như những chuyến đi chơi chung với nhau, v.v...

- Hỏi: Tôi là công dân Hoa Kỳ. Hai mươi năm trước, con trai tôi sinh ở Việt Nam, nhưng tôi đã không gặp cháu khi cháu mới 2 tuổi. Tôi có thể bảo lãnh cháu không?

- Đáp: Nếu ông kết hôn hợp pháp với mẹ của cháu khi cháu sinh ra đời, và tên của ông có trên khai sinh của con, ông có thể bảo lãnh cháu ngay bây giờ. Hôn thú của ông và giấy khai sinh của cháu đã đầy đủ.

Nếu người con được sinh ngoài giá thú, ngoài việc phải thử liên hệ huyết thống DNA, ông cần phải có những bằng chứng cho thấy ông đã hợp pháp hóa liên hệ với con trước khi cháu 18 tuổi, hoặc ông có những bằng chứng liên hệ cha-con, có nghĩa là ông luôn luôn giữ trách nhiệm về tinh thần và vật chất để nuôi nấng đứa trẻ.

Quý độc giả muốn có thêm tin tức cập nhật, xin theo dõi qua báo chí hay đón nghe chương trình phát thanh và phát hình trực tiếp của chúng tôi vào mỗi tối thứ Tư từ 7-8PM , trên các làn sóng 1430AM, 1500AM, và 106.3FM và trên trang nhà của văn phòng: www.rmiodp.com, mục Radio. Hoặc liên lạc với một văn phòng Robert Mullins International gần nhất: Westminster: Văn Phòng mới trong khu Hanoi Plaza, trên đường Bolsa (714) 890-9933 , San Jose (408) 294-3888 (779 Story Road, phía trước Wal Mart), Sacramento (916) 393-3388 hay Email: info@rmiodp.com.
Thứ Tư, 02 Tháng Mười Hai 2009(Xem: 98158)
Trong một số chương trình hội thoại của văn phòng Robert Mullins International hai năm trước, chúng tôi đã nói về một số ý kiến trong quốc hội muốn thông qua một dự luật di trú nhằm loại bỏ một số hạng mục chiếu khán (visa) giành cho diện bảo lãnh con cái trên 21 tuổi và diện anh chị em. Đây là dự thảo luật S.1348.
Thứ Tư, 25 Tháng Mười Một 2009(Xem: 98735)
Bản tổng kết mới nhất về số di dân trong tài khóa 2008 đã hoàn tất vào tháng 9 năm 2008. Theo những con số được phổ biến chính thức: Nước Mễ Tây Cơ đã đưa 190.000 di dân đến nước Mỹ. Nhóm di dân đông đảo chiếm hạng nhì là Trung Cộng (80.000 di dân), kế đến là Ấn Độ với 63.000 di dân, Cuba với 49.500 di dân, và nước Cộng Hòa Dominica với 32.000 di dân đến Hoa Kỳ. Việt Nam với 31.500 di dân, đứng thứ 7 trong danh sách 10 nước có nhiều di dân đến nước Mỹ.
Thứ Tư, 18 Tháng Mười Một 2009(Xem: 106343)
Người bảo lãnh được yêu cầu ký tên vào đơn Bảo Trợ Tài Chánh để cam đoan rằng những người được bảo lãnh không trở thành một "gánh nặng xã hội" khi họ đến Hoa Kỳ. Một số gia đình rất khó tìm một người đồng bảo trợ hoặc phụ bảo trợ tài chánh vì nhiều người không hiểu những gì phải cam kết khi trở thành người có trách nhiệm chung về việc bảo trợ tài chánh.
Thứ Tư, 11 Tháng Mười Một 2009(Xem: 109074)
Cho đến nay, những người xin chiếu khán nhập cảnh Hoa Kỳ, nhưng đang bị nhiễm siêu vi khuẩn liệt kháng HIV-Dương Tính phải thực hiện một số đòi hỏi trước khi được cấp chiếu khán (visa).
Thứ Tư, 28 Tháng Mười 2009(Xem: 101828)
Mục di trú và bảo lãnh do Văn Phòng tham vấn di trú Robert Mullins International đảm trách hằng tuần, nhằm mục đích thông báo các tin tức thời sự liên quan đến vấn đề đoàn tụ gia đình, rất hữu ích cho quý vị nào quan tâm đến việc bảo lãnh thân nhân. Mọi đóng góp ý kiến xin liên lạc 1-800-411-0495
Thứ Tư, 21 Tháng Mười 2009(Xem: 102497)
N ếu thời gian hôn nhân của qúy vị dưới hai năm cho đến ngày được chính thức trở thành thường trú nhân, qúy vị sẽ được cấp quy chế Thường Trú Nhân Có Điều Kiện. Quy chế thường trú nhân của qúy vị có điều kiện, vì qúy vị phải chứng minh rằng cuộc hôn nhân không vi phạm luật di trú Hoa Kỳ.
Thứ Bảy, 17 Tháng Mười 2009(Xem: 102898)
Đ ối với những hồ sơ bảo lãnh diện vợ-chồng, hoặc diện hôn thê-hôn phu, người được bảo lãnh sau khi sang Hoa Kỳ đoàn tụ với người thân sẽ nhận được Thẻ Xanh Thường Trú Có Điều Kiện. Hai năm sau, người được bảo lãnh phải nộp đơn xin Thẻ Xanh Thường Trú Nhân chính thức (có giá trị 10 năm).
Thứ Tư, 07 Tháng Mười 2009(Xem: 102877)
T rước khi quốc hội Hoa Kỳ thông qua Đạo Luật Di Trú Về Người Bảo Lãnh Gia Đình, thân nhân đang làm đơn bảo lãnh phải sống cho đến khi chiếu khán (visa) được cấp cho người thân được bảo lãnh. Nếu người bảo lãnh qua đời bất cứ lúc nào trong thời gian hồ sơ vẫn còn duyệt xét, luật bấy giờ nói rằng đơn xin chiếu khán di dân phải bị hủy bỏ ngay thời điểm người bảo lãnh qua đời.
Thứ Ba, 22 Tháng Chín 2009(Xem: 97341)
Trong tháng Mười, chúng ta thấy ngày đáo hạn cho diện bảo lãnh con độc thân của  các công dân Mỹ được gia tăng đáng kể. Diện bảo lãnh này đã tăng đến ngày 22 tháng 7 năm 2003, có nghĩa là tăng thêm 17 tuần.
Thứ Ba, 15 Tháng Chín 2009(Xem: 102717)
Những người bảo lãnh diện di dân đều phải nộp đơn Bảo Trợ Tài Chánh (mẫu I-864). Việc Bảo Trợ Tài Chánh có hiệu lực trong 10 năm kể từ ngày người được bảo lãnh đặt chân đến Hoa Kỳ, hay cho đến khi người được bảo lãnh trở thành công dân Mỹ.