Bốn Mươi Năm Sau: Những Điều Không Thể Đổi Thay

Thứ Hai, 27 Tháng Tư 201512:39(Xem: 28148)
Bốn Mươi Năm Sau: Những Điều Không Thể Đổi Thay

Mục di trú và bảo lãnh do Văn Phòng tham vấn di trú Robert Mullins International đảm trách hằng tuần, nhằm mục đích thông báo các tin tức thời sự liên quan đến vấn đề đoàn tụ gia đình, rất hữu ích cho quý vị nào quan tâm đến việc bảo lãnh thân nhân. Đề tài trên đây cũng được thảo luận trực tiếp trên trang nhà của văn phòng, www.rmiodp.com, tiết mục Radio, vào mỗi tối  thứ Tư , từ 7:00-8:00 giờ.


(Robert Mullins International) Nhà nước Việt Nam có cởi mở hơn về quan hệ quần chúng không? Năm ngoái, một vài tin tức nói rằng nhà nước Việt Nam - một chế độ cộng sản - muốn thể hiện một chút nhân quyền - đã trở thành một nước đầu tiên ở Đông Nam Á bãi bỏ lệnh cấm về hôn nhân đồng tính.

Tin này không đúng. Vì điều này không bao giờ xảy ra.

Ở Việt Nam ngày nay, những cặp đồng tính chỉ có thể sống chung "hộ khẩu" và có thể tổ chức đám cưới, nhưng họ không bao giờ được xin giấy hôn thú. Chẳng hề có chuyện bãi bỏ luật cấm này và họ không thể nào kết hôn ở Việt Nam. Nhà nước Việt Nam loan báo rằng việc nới rộng kể trên là biểu tượng cho tính "khoan dung" và "thông cảm" của nhà nước, và một số người ngoại quốc cả tin thì lại nghĩ rằng đã có một số chỉ dấu cải thiện nhân quyền của Việt Nam! Nhưng đây chỉ là ảo tưởng, cố tạo ra một vài biểu tượng để thu mỹ kim từ những du khách đồng tính ngoại quốc. Thực ra chẳng có gì thay đổi cả. Tổ chức Quan Sát Nhân Quyền Á Châu (the Asia for Human Rights Watch) nói rằng "nhà nước Việt Nam tiếp tục vi phạm nhân quyền với sự báo động thường xuyên".

Trong tháng 4 này, chúng ta thấy nhiều bài viết trên một số cơ quan truyền thông Anh ngữ mô tả Việt Nam là nơi mà du khách "phải tìm đến"! Chẳng có ai ngạc nhiên về những người viết bài này được mời đến Việt Nam với sự tài trợ của nhà nước Việt Nam.

Nhiều thập niên sau chiến tranh, một số người tỵ nạn về Việt Nam làm ăn! Cuộc chiến Việt Nam đã lấy đi 3 triệu người Việt Nam và hơn 58.000 người Hoa Kỳ. Sau đó, hơn một triệu người bị bắt lao động khổ sai trong những trại tù "cải tạo", nơi đã có nhiều người thiệt mạng vì nhiều lý do khác nhau và hàng chục ngàn người bị giam cầm cho đến cuối năm 1980. Cùng lúc, hàng ngàn người đấu tranh cho tự do dân chủ bị giam giữ khắp nơi ở Việt Nam. Nhiều người khác tìm cách vượt thoát khỏi chế độ cộng sản trên những chiếc ghe chở đầy người  phải đối phó với bọn hải tặc, giông bão và đói khát. Từ năm 1975 cho đến 1995, khoảng 800.000 thuyền nhân tỵ nạn đã phải lánh cư ở các quốc gia khác, trong khi có khoảng 300.000 gửi xác nơi biển cả mênh mông. Thời bấy giờ, nhà nước cộng sản Việt Nam luôn xem những người Việt ra đi tỵ nạn là "bọn phản quốc".

Vậy thì tại sao một số người Việt lại quay về sống và làm việc tại Việt Nam? Trước hết, hầu hết những người trở về này không phải là những người phải chiến đấu trong cuộc chiến vừa qua, cũng không phải là những người từng phải trải qua nhiều năm trong tù "cải tạo". Họ là những người rời khỏi Việt Nam khi còn rất nhỏ và lớn lên ở một đất nước khác.

Một số người trở về Việt Nam có cảm nhận về một nơi đã bỏ đi khá lâu và biết rất ít về nơi chốn ấy vì họ rời khỏi quê hương khi còn bé. Một người nói rằng: "Tôi muốn trở về nơi đã rời bỏ. Một điều gì đó đã thúc đẩy tôi. Đó là nơi tôi nghĩ có nhiều cơ hội để làm một điều gì đó và là một cơ hội để tìm lại đất nước của bạn, tìm lại chính bạn". Những suy nghĩ lý tưởng này không kéo dài bao lâu, nhiều người trong số này đã lặng lẽ rời khỏi Việt Nam và không bao giờ trở lại.

Trang mạng điện tử của đảng cộng sản Việt Nam khoe rằng từ năm 2004 đến giữa tháng Sáu 2013 có khoảng 3000 "Việt kiều" đã trở về sống thường trú ở thành phố Sài Gòn, trong khi có khoảng 9.000 người khác được cấp giấy phép sống thường xuyên ở Việt Nam để làm việc và đầu tư ở thành phố này. Nhưng trang mạnh điện tử của đảng chưa hề làm thống kê thú nhận đã có bao nhiều người bị lường gạt và khánh tận vì những luật lệ tròng tréo và thiếu minh bạch ở Việt Nam.

Một người thoát khỏi Sài Gòn khi còn trẻ trên một chiếc trực thăng trên nóc tòa Đại sứ Hoa Kỳ ngay lúc thành phố này bị cưỡng chiếm. Anh ta trở về Việt Nam sau hai thập niên và là giám đốc của một công ty Hoa Kỳ sản suất hàng hóa tại Việt Nam. Ông nói đây là cơ hội để làm một điều gì đó có ý nghĩa cho mảnh đất sinh ra anh. Tương tự, anh cũng phải bỏ cuộc vì tệ nạn tham nhũng kinh hoàng ở Việt Nam.

Một thanh niên khác có người chị bị hải tặc Thái Lan giết chết khi vượt biên khỏi Việt Nam, anh này mới đây trở về Sài Gòn và trở thành một doanh thương tương đối thành công, nhưng cũng chỉ trong một thời gian ngắn. Một "Việt kiều" khác có cha từng bị tù "cải tạo" một thời gian dài, đã trở về Việt Nam để hưởng tuần trăng mật, và rồi cũng thất vọng về hệ thống du lịch kém chất lượng ở Việt Nam. Một người khác cũng có cha từng bị lao động khổ sai trong tù "cải tạo" đã trở về Việt Nam và hiện làm chủ một quán rượu, và cũng phải than thở về việc phải đóng tiền "hụi chết" thường xuyên cho công an địa phương.

Một vài người khác trở về với tinh thần khác. Một phụ nữ Việt từng vượt biên với gia đình vào cuối thập niên 70. Bà đã về Việt Nam để giúp lập một chương trình giúp đỡ những  gia đình nghèo ở đồng bằng Cửu Long để những gia đình này không bán con cho những đường dây buôn trẻ em. Bà đã giúp thay đổi số mệnh cho nhiều gia đình có đời sống tốt hơn.

Hầu hết những người tỵ nạn Việt Nam đều suy nghĩ rằng về Việt Nam muốn làm giàu là điều không tưởng. Còn muốn trợ giúp để đất nước tốt đẹp hơn thì không thể làm bằng cách chữa cháy thường trực, mà phải bằng những việc làm quyết tâm và cụ thể, để chấm dứt nguyên nhân gây ra thảm trạng này.

Một tựa tin nổi bật mới đây nói rằng "Người Việt tại Nam California phải dời nơi tổ chức lễ tưởng niệm sau khi lá cờ bị cấm treo ở căn cứ hải quân": Một bản tin trên báo Mỹ ở Nam California loan tin người Việt tỵ nạn đã huỷ bỏ chương trình tưởng niệm 40 năm mất miền Nam tại căn cứ quân sự Camp Pendleton Marine Corp Base, nơi đã từng là nơi trú ngụ của những người Việt tỵ nạn đầu tiên tại tiểu bang California. Căn cứ này thông báo rằng ban tổ chức lễ tưởng niệm không thể treo cờ của miền Nam tự do trước năm 1975.

Lễ tưởng niệm dự trù vào ngày 25 tháng Tư được chuyển đến một địa điểm mới ở Little Saigon thuộc quận hạt Orange County, nơi mà cộng đồng người Việt có thể tự do treo Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ và cùng hát quốc ca Việt Nam.

Một người trong ban tổ chức nói rằng" Chúng tôi đều khẳng định rằng nếu không có lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ và quốc ca của miền Nam tự do, buổi tưởng niệm của chúng tôi sẽ không còn ý nghĩa nữa". Ông nói: "Lễ tưởng niệm là của cộng đồng chúng tôi và chúng tôi  xem đây là ưu tiên phải thực hiện".

Lá cờ biểu tượng cho tự do, dân chủ không được giương cao ở căn cứ quân sự Camp Pedleton cũng là điều dễ hiểu, vì đây là vấn đề chính trị. Như một thanh niên hoạt động cho nhân quyền Việt Nam ở Nam California  góp ý và nhấn mạnh rằng: "Người ta có thể dựa vào một nguyên tắc nào đó để ngăn trở một hành động đúng đắn, nhưng người ta, bất cứ ai, không thể nào ngăn cản, cấm đoán lá cờ tự do luôn giương cao trong lòng người dân Việt yêu dân chủ và tự do".

Quý độc giả muốn có thêm tin tức cập nhật, xin theo dõi qua báo chí hay đón nghe  chương trình phát thanh và phát hình trực tiếp của chúng tôi vào mỗi tối thứ Tư từ 7-8PM, trên các làn sóng 1430AM  và 106.3FM và trên trang nhà của văn phòng: www.rmiodp.com, mục Radio. Hoặc liên lạc với một văn phòng Robert Mullins International gần nhất: Westminster: Văn Phòng mới trong khu Hanoi Plaza, trên đường Bolsa (714) 890-9933 , San Jose (408) 294-3888 (779 Story Road, phía trước Wal Mart), Sacramento (916) 393-3388 hay Email: info@rmiodp.com.

Chủ Nhật, 25 Tháng Chín 2022(Xem: 7630)
(Robert Mullins International) Thông tin này dựa vào bản báo cáo của Trung Tâm Chiếu Khán Quốc Gia (NVC). Kể từ tháng 3 năm 2020, đại dịch COVID-19 đã ảnh hưởng đáng kể đến khả năng duyệt xét đơn xin chiếu khán nhập cư của Bộ Ngoại giao. Các đại sứ quán và lãnh sự quán Hoa Kỳ đang làm việc để tiếp tục các dịch vụ chiếu khán thông thường càng nhanh càng tốt. Tuy nhiên, đại dịch tiếp tục ảnh hưởng nghiêm trọng đến số lượng chiếu khán mà các đại sứ quán và lãnh sự quán có thể xét duyệt. Vào những thời điểm khác nhau, quá trình duyệt xét của lãnh sự bị chậm lại hoặc tạm dừng vì các lệnh đóng cửa tại địa phương và toàn quốc; việc hạn chế đi lại; các quy định về kiểm dịch của nước sở tại; và nỗ lực của các đại sứ quán và lãnh sự quán Hoa Kỳ để ngăn chặn sự lây lan của COVID-19.
Chủ Nhật, 18 Tháng Chín 2022(Xem: 7984)
(Robert Mullins International) Chương trình DACA đã tới lui tại các tòa án kể từ khi nó bắt đầu vào năm 2012. Một luật DACA mới đã được ban hành vào cuối tháng Tám. Ông Biden hy vọng sẽ tiếp tục DACA vì nó bảo vệ những người nhập cư đến Mỹ bất hợp pháp khi còn thơ ấu. Luật vẫn chưa đưa vào hiệu lực cho đến ngày 31 tháng 10 và nó vẫn là chủ đề của một vụ kiện tại Tòa án phúc thẩm khu vực 5. Vụ kiện đó tuyên bố DACA là bất hợp pháp. Vụ việc đó vẫn chưa xong và nếu có quyết định chống lại DACA thì chương trình sẽ cần phải lên Tòa án Tối cao một lần nữa. Chương trình DACA đã bị đóng đối với những đương đơn mới kể từ tháng 16 tháng 7 năm 2021 vì vụ kiện của tòa án liên Bang tại Texas, mặc dù chương trình vẫn cho phép gia hạn. Luật mới của ông Biden sẽ chưa có hiệu lực cho đến ngày 31 tháng 10. Chính quyền Biden hy vọng rằng việc ban hành một luật chính thức trong bộ luật liên bang sẽ bảo vệ chương trình trước tòa án liên bang.
Thứ Bảy, 10 Tháng Chín 2022(Xem: 7487)
(Robert Mullins International) Vào ngày 24 tháng 8, một nhóm vận động trong lĩnh vực EB-5 đã đạt được thỏa thuận với Sở Di Trú Hoa kỳ. Thỏa thuận khẳng định cho các Trung tâm vùng đã được chuẩn thuận trước đây sẽ duy trì trạng thái uỷ quyền của họ và không cần xin lại quy chế Trung tâm vùng. Tất cả các Trung tâm vùng, bao gồm những trung tâm đã được chuẩn thuận trước tháng 3 năm 2022, vẫn phải nộp Mẫu đơn I-956 mới và phí nộp đơn $ 17,795 trước ngày 29 tháng 12 năm 2022. Các trung tâm vùng không cần phải đợi đơn I-956 chấp thuận. Họ có thể hoạt động ngay sau khi họ nộp đơn I-956. Các Trung tâm vùng được chấp thuận trước tháng 3 năm 2022, đơn I-956 của họ phải được xem xét trước khi có Trung tâm vùng mới.
Thứ Ba, 06 Tháng Chín 2022(Xem: 8375)
(Robert Mullins International) Một cuộc phỏng vấn với Sở di trú là phần khó khăn nhất đối với người đến Hoa Kỳ có chiếu khán (visa) du lịch hoặc sinh viên du học khi kết hôn với một công dân Mỹ sau chỉ vài tháng đến Hoa Kỳ. Suy nghĩ đầu tiên trong đầu nhân viên di trú là "Làm sao họ có thể rơi vào lưới tình và kết hôn chỉ trong một thời gian ngắn như vậy?". Nhân viên Sở di trú có thể phỏng vấn cách ly hai người trong cuộc phóng vấn xin Thẻ Xanh. Nhân viên di trú có thể hỏi người chồng về màu sắc màn cửa trong phòng ngủ. Người chồng trả lời là "Xanh lá cây". Vợ anh ta trả lời cùng câu hỏi là "Xanh dương". Chỉ với những câu trả lời căn bản như vậy thôi, nhân viên di trú đã cố tìm những lý do để từ chối đơn xin điều chỉnh tình trạng cư trú.
Chủ Nhật, 28 Tháng Tám 2022(Xem: 7989)
(Robert Mullins International) Một trong những thân chủ của văn phòng Robert Mullins International mô tả lần gặp gỡ nhân viên Sở di trú giống như "một cuộc phỏng vấn nín thở qua sông", rất hồi hộp và căng thẳng. Điều chẳng có gì ngạc nhiên về những cuộc phỏng vấn với nhân viên Sở di trú sẽ rất căng thẳng với tất cả mọi người, kể cả những cặp vợ chồng có mối quan hệ trong sáng vì chẳng có gì để che dấu cả. Kể cả những cặp vợ chồng thật nhất vẫn có thể hiểu lầm câu hỏi của nhân viên phỏng vấn hoặc bị mất trí nhớ trong một thoáng nào đó, làm cho họ đưa ra những câu trả lời sai hoặc không thể chấp nhận được. Giả định rằng có một mối tình chân thật nào đó, cả hai người đều biết rằng ngày hết hạn chiếu khán du lịch hoặc du học đã gần kề, vì thế họ không màng đến việc cần có thời gian dài quen biết nhau. Tuy nhiên, nhân viên Sở di trú lại rất quan tâm về việc này.
Thứ Hai, 22 Tháng Tám 2022(Xem: 9511)
(Robert Mullins International) Kết hôn ở Việt Nam hoặc đợi kết hôn sau khi hôn phu-thê đến Hoa Kỳ, cách nào tốt hơn? Đây là thắc mắc chung của nhiều người trước khi chọn xúc tiến một loại hồ sơ bảo lãnh. Nhưng câu trả lời không dựa vào yếu tố tổng quát, mà còn tùy thuộc vào hoàn cảnh của cá nhân liên hệ. Hồ sơ diện vợ chồng thường được Tòa lãnh sự tin tưởng hơn. Với diện hôn phu - thê, lãnh sự sẽ có thể muốn biết lý do chánh đáng nào hai người lại chọn cách không kết hôn ở Việt Nam? Ưu điểm của việc chọn lập một hồ sơ theo diện vị hôn phu-thê là thời gian duyệt xét nhanh hơn khoảng ½ thời gian xét diện vợ-chồng, có thể đem theo con riêng trên 18 tuổi nhưng dưới 21 tuổi. Người bảo lãnh và được bảo lãnh vẫn có thể thay đổi quyết định không tiến tới hôn nhân sau khi nhập cảnh Mỹ trước 90 ngày. Trong khi đó, khuyết điểm cũng không ít: Tự túc bảo trợ tài chánh mà không được nhờ người phụ bảo trợ. Nếu không may hồ sơ bị từ chối, người bảo lãnh không được kháng cáo hay lập một hồ sơ
Chủ Nhật, 14 Tháng Tám 2022(Xem: 9113)
(Robert Mullins International) Nên bảo lãnh diện vợ - chồng hay hôn phu - thê? Bảo lãnh diện vợ - chồng không bảo đảm là hồ sơ sẽ được Lảnh sự dễ dàng chấp thuận, nhưng hồ sơ này sẽ dễ gây ấn tượng tốt đối với nhân viên lãnh sự hơn là hồ sơ hôn phu - thê. Bảo lãnh vợ - chồng thường đòi hỏi người bảo lãnh phải có ít nhất hai chuyến đi Việt Nam - một chuyến đi để gặp mặt trực tiếp và chuyến đi thứ hai để kết hôn. Đôi khi người bảo lãnh cần phải đi chuyến thứ ba chỉ để ký giấy hôn thú vì không đủ thời gian hoàn tất thủ tục xin hôn thú rất nhiêu khê trong lần thứ hai về Việt Nam. Đó là lý do tại sao một số người chọn bảo lãnh diện hôn phu - thê. Trong cả hai diện bảo lãnh vợ - chồng và hôn phu - thê, điều quan trọng nhất vẫn là bằng chứng liên lạc: emails, thư từ, hình ảnh, liên lạc qua các mạng xã hội, những chuyến về Việt Nam, v.v… Sở di trú đôi khi đòi hỏi phải có bản sao cùi vé máy bay, hoặc những trang trong sổ thông hành (passport) có đóng mộc ghi nhận ngày đến và rời khỏi Việt N
Chủ Nhật, 07 Tháng Tám 2022(Xem: 9085)
(Robert Mullins International) Một người vợ hoặc chồng là người ngoại quốc nhập cảnh Hoa Kỳ với loại chiếu khán (visa) phi-di-dân, không vi phạm diện nhập cảnh, có thể nộp đơn xin Thẻ Xanh nếu họ hợp lệ để xin chiếu khán di dân. Ngoài ra cũng có một số trường hợp nộp đơn xin thẻ xanh theo diện đầu tư EB-5 trực tiếp kinh doanh, hay lao động EB-3. Chúng tôi sẽ viết về 2 diện EB này trong những kỳ tới. Nếu qúy vị là khách du lịch với chiếu khán loại B-2, hoặc là sinh viên du học, hoặc nhập cảnh với chiếu khán miễn thị thực WT, qúy vị có thể nộp đơn xin Thẻ Xanh sau khi kết hôn với một công dân Mỹ.
Thứ Hai, 01 Tháng Tám 2022(Xem: 8151)
(Robert Mullins International) Tiếp theo phần 1 kỳ trước, việc nhận con nuôi quốc tế từ Việt Nam sang Hoa Kỳ đã không còn giới hạn đối với trẻ em có nhu cầu đặc biệt, trẻ em trên năm tuổi và trẻ em trong nhóm anh chị em ruột. Chúng tôi tiếp tục giai đoạn 4 đến 6 trong thủ tục xin nhận con nuôi gồm có 6 giai đoạn. Sau khi bạn chấp nhận được kết hợp với một đứa trẻ cụ thể, bạn sẽ nộp đơn lên USCIS để được chấp thuận tạm thời cho đứa trẻ đó nhập cư vào Hoa Kỳ bằng cách nộp Mẫu I-800, Đơn Yêu cầu Phân loại Người nhận con nuôi Công ước là Người thân ngay lập tức. USCIS sẽ đưa ra quyết định tạm thời về việc liệu đứa trẻ có đáp ứng định nghĩa của một người được chấp nhận Công ước hay không và có khả năng đủ điều kiện để được nhận vào Hoa Kỳ hay không.
Thứ Hai, 25 Tháng Bảy 2022(Xem: 7577)
(Robert Mulllins International) Vào ngày 31 tháng 12 năm 2020, việc nhận con nuôi quốc tế từ Việt Nam sang Hoa Kỳ đã không còn giới hạn đối với trẻ em có nhu cầu đặc biệt, trẻ em trên năm tuổi và trẻ em trong nhóm anh chị em ruột. Thời gian chờ đợi để nhận được giấy giới thiệu của một trẻ em được cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam xác định đủ điều kiện làm con nuôi nước ngoài theo diện nhu cầu đặc biệt thường ngắn hơn so với những trẻ em khác. Việt Nam là thành viên của Công ước về con nuôi La Hay (Hague), nên việc nhận con nuôi từ Việt Nam phải tuân theo một quy trình cụ thể được thiết kế để đáp ứng các yêu cầu của Công ước. Dưới đây là một bản tóm tắt ngắn gọn về quá trình thông qua Công ước. Bạn phải hoàn thành các bước này theo thứ tự sau để đáp ứng tất cả các yêu cầu pháp lý cần thiết. Việc nhận con nuôi được hoàn thành không theo trình tự có thể gây ra sự chậm trễ đáng kể hoặc dẫn đến việc đứa trẻ không đủ điều kiện để được cấp thị thực nhập cư vào Hoa Kỳ.