Làm Sao Thuyết Phục Sở Di Trú Tái Chấp Thuận Đơn Bảo Lãnh ?

Thứ Tư, 26 Tháng Ba 201400:00(Xem: 32724)
Làm Sao Thuyết Phục Sở Di Trú Tái Chấp Thuận Đơn Bảo Lãnh ?
Mục di trú và bảo lãnh do Văn Phòng tham vấn di trú Robert Mullins International đảm trách hằng tuần, nhằm mục đích thông báo các tin tức thời sự liên quan đến vấn đề đoàn tụ gia đình, rất hữu ích cho quý vị nào quan tâm đến việc bảo lãnh thân nhân. Đề tài trên đây cũng được thảo luận trực tiếp trên trang nhà của văn phòng, www.rmiodp.com, tiết mục Radio, vào mỗi tối thứ Tư , từ 7:00-8:00 giờ.

Nếu hồ sơ bảo lãnh diện vợ-chồng hoặc diện hôn phu-hôn thê (fiancée) không được chấp thuận trong cuộc phỏng vấn chiếu khán (visa), Tòa Lãnh sự Hoa Kỳ thường yêu cầu đương đơn nộp một bản Tường Trình Quan Hệ và cũng có thể yêu cầu nộp thêm những bằng chứng quan hệ. Sau khi những giấy tờ yêu cầu được nộp, nếu Tòa Lãnh sự vẫn chưa được thuyết phục rằng mối quan hệ là chân thật, đơn bảo lãnh sẽ bị trả về Sở di trú tại Hoa Kỳ để duyệt xét lại và có thể bị hủy bỏ.

Nếu đơn bảo lãnh bị trả về Sở di trú Hoa Kỳ, thời gian chờ đợi sẽ rất lâu để được tái duyệt xét và liên lạc với người bảo lãnh yêu cầu giải thích và bổ sung bằng chứng. Thời gian chờ đợi có thể là một năm hoặc lâu hơn.

Vấn đề trở ngại với những hồ sơ bị từ chối sẽ được Sở di trú duyệt xét là họ chỉ dựa hoàn toàn vào những gì Tòa Lãnh sự nói với họ. Họ không hề có bất cứ kiến thức nào về những điều kiện sinh sống ở Việt Nam và không thể thẩm định nếu những lý do từ chối của Lãnh sự có giá trị hay không.

Tương tự, nếu một nhân viên Lãnh sự ở Sài Gòn muốn từ chối một hồ sơ, họ chỉ cần đưa ra một vài thí dụ mà đương đơn không biết vào lúc phỏng vấn. Sở di trú có thể chấp nhận những gì Lãnh sự nói nhưng trong nhiều hồ sơ, lý do từ chối của Lãnh sự không hợp lý chút nào. Thí dụ, Lãnh sự có thể nói với Sở di trú rằng đương đơn không thể mô tả nơi mà người bảo lãnh sinh sống ở Hoa Kỳ, hoặc không thể kể tên những người bạn hoặc người chủ của người bảo lãnh.

Hoặc, Lãnh sự có thể nói với Sở di trú rằng tiệc đính hôn của hai người này quá nhỏ, hoặc đương dơn không biết chi tiết về đời sống của người bảo lãnh ở Hoa Kỳ, chẳng hạn như người chồng thích ăn gì, tên của những chương trình TV mà chồng ưa thích, tên những nơi chồng thường đi khi rảnh rỗi. Hoặc Lãnh sự có thể nói rằng bằng chứng hình ảnh cho thấy hai người chỉ sống gần nhau có vài ngày ở Việt Nam.

Vì thế, khi Sở di trú liên lạc với người bảo lãnh và nói rằng họ dự tính hủy bỏ đơn bảo lãnh, người bảo lãnh phải có thể cung cấp thêm những bằng chứng quan hệ và giải thích tại sao lý do từ chối của Lãnh sự không có giá trị.

Thí dụ, người bảo lãnh cần giải thích rằng đương đơn chưa hề ở Hoa Kỳ và không cách nào người vợ có thể mô tả một thành phố chưa hề nhìn thấy. Và người bảo lãnh phải giải thích rằng những tiệc đính hôn và tiệc cưới lớn không còn là truyền thống của những cặp vợ chồng hiện nay. Và nếu Sở di trú Hoa Kỳ yêu cầu nộp chứng minh những nguồn tài chánh có chung tên của hai người, người bảo lãnh phải giải thích rằng người vợ hoặc hôn thê sống ở Việt Nam, không phải là thường trú nhân ở Hoa Kỳ, vì thế tên của họ không thể có trong những chương mục ngân hàng hoặc thẻ tín dụng, hoặc trong những hồ sơ bảo hiểm, hay có bất cứ bằng chứng bình thường khác của hai người sống chung với nhau ở Hoa Kỳ.

Bất cứ những phản hồi nào liên quan đến giấy thông báo của Sở di trú Hoa Kỳ có Dự Tính Hủy Bỏ đơn bảo lãnh phải dựa trên dữ kiện, chứ không dựa trên những yếu tố tình cảm, đừng yêu cầu Sở di trú "thông cảm". Nhân viên di trú không có quyền chấp thuận một hồ sơ vì những giòng chữ khiếu nại dựa trên tình cảm. Họ cần những lý do hợp lý và những bằng chứng tốt để có thể tái chấp thuận đơn bảo lãnh.

Có cách nào để thoát khỏi tình trạng chờ đợi mệt mỏi như vậy không? Có. Vào ngày 5 tháng Ba năm 2014 vừa qua, trong ngày Đón Khách Đặc Biệt tại Tòa Lãnh sự Hoa Kỳ ở Sài Gòn, Trưởng phòng Chiếu Khán Di Dân nói rằng nếu người bảo lãnh hủy bỏ hoặc từ bỏ đơn bảo lãnh đầu tiên và nộp đơn mới, Tòa Lãnh sự sẽ duyệt xét đơn bảo lãnh mới một cách vô tư. Nói cách khác, họ sẽ duyệt xét đơn bảo lãnh mới mà không bị ảnh hưởng bởi hồ sơ bảo lãnh bị từ chối trước đây.

Hỏi Đáp Di Trú

- Hỏi: Nếu đơn bảo lãnh mới được nộp với những bằng chứng cũ như lần nộp với đơn bảo lãnh đầu tiên, cơ hội thành công ra sao?

- Đáp: Hồ sơ như vậy rất ít cơ hội thành công. Đơn mới phải có những bằng chứng vượt qua những lý do từ chối của Lãnh sự.

- Hỏi: Nếu hồ sơ bị từ chối trong ngày phỏng vấn, khi nào đương đơn và người bảo lãnh phải nộp những bằng chứng mới hoặc phản bác những lý do từ chối?

- Đáp: Theo quy định, hai người có một năm sau ngày phỏng vấn để phản bác sự từ chối này. Tuy nhiên, có nhiều khi Lãnh sự không cần đợi thời gian dài và tự động trả đơn bảo lãnh về lại Sở di trú Hoa Kỳ mà không loan báo trước.

- Hỏi: Nếu yêu cầu dân biểu địa phương giúp đỡ, liệu có giúp ích gì được không?

- Đáp: Những thư khiếu nại của dân biểu gửi tới Tòa Lãnh sự chỉ thích hợp nếu cho thấy rõ là Lãnh sự đã sai lầm khi từ chối và trả đơn bảo lãnh, hoặc nếu thời gian duyệt xét tại Tòa Lãnh sự hoặc Sở di trú quá lâu theo thời gian quy định.


Quý độc giả muốn có thêm tin tức cập nhật, xin theo dõi qua báo chí hay đón nghe chương trình phát thanh và phát hình trực tiếp của chúng tôi vào mỗi tối thứ Tư từ 7-8PM, trên các làn sóng 1430AM, 1500AM, và 106.3FM và trên trang nhà của văn phòng: www.rmiodp.com, mục Radio. Hoặc liên lạc với một văn phòng Robert Mullins International gần nhất: Westminster: Văn Phòng mới trong khu Hanoi Plaza, trên đường Bolsa (714) 890-9933 , San Jose (408) 294-3888 (779 Story Road, phía trước Wal Mart), Sacramento (916) 393-3388 hay Email: info@rmiodp.com.
Chủ Nhật, 25 Tháng Chín 2022(Xem: 7548)
(Robert Mullins International) Thông tin này dựa vào bản báo cáo của Trung Tâm Chiếu Khán Quốc Gia (NVC). Kể từ tháng 3 năm 2020, đại dịch COVID-19 đã ảnh hưởng đáng kể đến khả năng duyệt xét đơn xin chiếu khán nhập cư của Bộ Ngoại giao. Các đại sứ quán và lãnh sự quán Hoa Kỳ đang làm việc để tiếp tục các dịch vụ chiếu khán thông thường càng nhanh càng tốt. Tuy nhiên, đại dịch tiếp tục ảnh hưởng nghiêm trọng đến số lượng chiếu khán mà các đại sứ quán và lãnh sự quán có thể xét duyệt. Vào những thời điểm khác nhau, quá trình duyệt xét của lãnh sự bị chậm lại hoặc tạm dừng vì các lệnh đóng cửa tại địa phương và toàn quốc; việc hạn chế đi lại; các quy định về kiểm dịch của nước sở tại; và nỗ lực của các đại sứ quán và lãnh sự quán Hoa Kỳ để ngăn chặn sự lây lan của COVID-19.
Chủ Nhật, 18 Tháng Chín 2022(Xem: 7875)
(Robert Mullins International) Chương trình DACA đã tới lui tại các tòa án kể từ khi nó bắt đầu vào năm 2012. Một luật DACA mới đã được ban hành vào cuối tháng Tám. Ông Biden hy vọng sẽ tiếp tục DACA vì nó bảo vệ những người nhập cư đến Mỹ bất hợp pháp khi còn thơ ấu. Luật vẫn chưa đưa vào hiệu lực cho đến ngày 31 tháng 10 và nó vẫn là chủ đề của một vụ kiện tại Tòa án phúc thẩm khu vực 5. Vụ kiện đó tuyên bố DACA là bất hợp pháp. Vụ việc đó vẫn chưa xong và nếu có quyết định chống lại DACA thì chương trình sẽ cần phải lên Tòa án Tối cao một lần nữa. Chương trình DACA đã bị đóng đối với những đương đơn mới kể từ tháng 16 tháng 7 năm 2021 vì vụ kiện của tòa án liên Bang tại Texas, mặc dù chương trình vẫn cho phép gia hạn. Luật mới của ông Biden sẽ chưa có hiệu lực cho đến ngày 31 tháng 10. Chính quyền Biden hy vọng rằng việc ban hành một luật chính thức trong bộ luật liên bang sẽ bảo vệ chương trình trước tòa án liên bang.
Thứ Bảy, 10 Tháng Chín 2022(Xem: 7380)
(Robert Mullins International) Vào ngày 24 tháng 8, một nhóm vận động trong lĩnh vực EB-5 đã đạt được thỏa thuận với Sở Di Trú Hoa kỳ. Thỏa thuận khẳng định cho các Trung tâm vùng đã được chuẩn thuận trước đây sẽ duy trì trạng thái uỷ quyền của họ và không cần xin lại quy chế Trung tâm vùng. Tất cả các Trung tâm vùng, bao gồm những trung tâm đã được chuẩn thuận trước tháng 3 năm 2022, vẫn phải nộp Mẫu đơn I-956 mới và phí nộp đơn $ 17,795 trước ngày 29 tháng 12 năm 2022. Các trung tâm vùng không cần phải đợi đơn I-956 chấp thuận. Họ có thể hoạt động ngay sau khi họ nộp đơn I-956. Các Trung tâm vùng được chấp thuận trước tháng 3 năm 2022, đơn I-956 của họ phải được xem xét trước khi có Trung tâm vùng mới.
Thứ Ba, 06 Tháng Chín 2022(Xem: 8265)
(Robert Mullins International) Một cuộc phỏng vấn với Sở di trú là phần khó khăn nhất đối với người đến Hoa Kỳ có chiếu khán (visa) du lịch hoặc sinh viên du học khi kết hôn với một công dân Mỹ sau chỉ vài tháng đến Hoa Kỳ. Suy nghĩ đầu tiên trong đầu nhân viên di trú là "Làm sao họ có thể rơi vào lưới tình và kết hôn chỉ trong một thời gian ngắn như vậy?". Nhân viên Sở di trú có thể phỏng vấn cách ly hai người trong cuộc phóng vấn xin Thẻ Xanh. Nhân viên di trú có thể hỏi người chồng về màu sắc màn cửa trong phòng ngủ. Người chồng trả lời là "Xanh lá cây". Vợ anh ta trả lời cùng câu hỏi là "Xanh dương". Chỉ với những câu trả lời căn bản như vậy thôi, nhân viên di trú đã cố tìm những lý do để từ chối đơn xin điều chỉnh tình trạng cư trú.
Chủ Nhật, 28 Tháng Tám 2022(Xem: 7806)
(Robert Mullins International) Một trong những thân chủ của văn phòng Robert Mullins International mô tả lần gặp gỡ nhân viên Sở di trú giống như "một cuộc phỏng vấn nín thở qua sông", rất hồi hộp và căng thẳng. Điều chẳng có gì ngạc nhiên về những cuộc phỏng vấn với nhân viên Sở di trú sẽ rất căng thẳng với tất cả mọi người, kể cả những cặp vợ chồng có mối quan hệ trong sáng vì chẳng có gì để che dấu cả. Kể cả những cặp vợ chồng thật nhất vẫn có thể hiểu lầm câu hỏi của nhân viên phỏng vấn hoặc bị mất trí nhớ trong một thoáng nào đó, làm cho họ đưa ra những câu trả lời sai hoặc không thể chấp nhận được. Giả định rằng có một mối tình chân thật nào đó, cả hai người đều biết rằng ngày hết hạn chiếu khán du lịch hoặc du học đã gần kề, vì thế họ không màng đến việc cần có thời gian dài quen biết nhau. Tuy nhiên, nhân viên Sở di trú lại rất quan tâm về việc này.
Thứ Hai, 22 Tháng Tám 2022(Xem: 9337)
(Robert Mullins International) Kết hôn ở Việt Nam hoặc đợi kết hôn sau khi hôn phu-thê đến Hoa Kỳ, cách nào tốt hơn? Đây là thắc mắc chung của nhiều người trước khi chọn xúc tiến một loại hồ sơ bảo lãnh. Nhưng câu trả lời không dựa vào yếu tố tổng quát, mà còn tùy thuộc vào hoàn cảnh của cá nhân liên hệ. Hồ sơ diện vợ chồng thường được Tòa lãnh sự tin tưởng hơn. Với diện hôn phu - thê, lãnh sự sẽ có thể muốn biết lý do chánh đáng nào hai người lại chọn cách không kết hôn ở Việt Nam? Ưu điểm của việc chọn lập một hồ sơ theo diện vị hôn phu-thê là thời gian duyệt xét nhanh hơn khoảng ½ thời gian xét diện vợ-chồng, có thể đem theo con riêng trên 18 tuổi nhưng dưới 21 tuổi. Người bảo lãnh và được bảo lãnh vẫn có thể thay đổi quyết định không tiến tới hôn nhân sau khi nhập cảnh Mỹ trước 90 ngày. Trong khi đó, khuyết điểm cũng không ít: Tự túc bảo trợ tài chánh mà không được nhờ người phụ bảo trợ. Nếu không may hồ sơ bị từ chối, người bảo lãnh không được kháng cáo hay lập một hồ sơ
Chủ Nhật, 14 Tháng Tám 2022(Xem: 9009)
(Robert Mullins International) Nên bảo lãnh diện vợ - chồng hay hôn phu - thê? Bảo lãnh diện vợ - chồng không bảo đảm là hồ sơ sẽ được Lảnh sự dễ dàng chấp thuận, nhưng hồ sơ này sẽ dễ gây ấn tượng tốt đối với nhân viên lãnh sự hơn là hồ sơ hôn phu - thê. Bảo lãnh vợ - chồng thường đòi hỏi người bảo lãnh phải có ít nhất hai chuyến đi Việt Nam - một chuyến đi để gặp mặt trực tiếp và chuyến đi thứ hai để kết hôn. Đôi khi người bảo lãnh cần phải đi chuyến thứ ba chỉ để ký giấy hôn thú vì không đủ thời gian hoàn tất thủ tục xin hôn thú rất nhiêu khê trong lần thứ hai về Việt Nam. Đó là lý do tại sao một số người chọn bảo lãnh diện hôn phu - thê. Trong cả hai diện bảo lãnh vợ - chồng và hôn phu - thê, điều quan trọng nhất vẫn là bằng chứng liên lạc: emails, thư từ, hình ảnh, liên lạc qua các mạng xã hội, những chuyến về Việt Nam, v.v… Sở di trú đôi khi đòi hỏi phải có bản sao cùi vé máy bay, hoặc những trang trong sổ thông hành (passport) có đóng mộc ghi nhận ngày đến và rời khỏi Việt N
Chủ Nhật, 07 Tháng Tám 2022(Xem: 9022)
(Robert Mullins International) Một người vợ hoặc chồng là người ngoại quốc nhập cảnh Hoa Kỳ với loại chiếu khán (visa) phi-di-dân, không vi phạm diện nhập cảnh, có thể nộp đơn xin Thẻ Xanh nếu họ hợp lệ để xin chiếu khán di dân. Ngoài ra cũng có một số trường hợp nộp đơn xin thẻ xanh theo diện đầu tư EB-5 trực tiếp kinh doanh, hay lao động EB-3. Chúng tôi sẽ viết về 2 diện EB này trong những kỳ tới. Nếu qúy vị là khách du lịch với chiếu khán loại B-2, hoặc là sinh viên du học, hoặc nhập cảnh với chiếu khán miễn thị thực WT, qúy vị có thể nộp đơn xin Thẻ Xanh sau khi kết hôn với một công dân Mỹ.
Thứ Hai, 01 Tháng Tám 2022(Xem: 8057)
(Robert Mullins International) Tiếp theo phần 1 kỳ trước, việc nhận con nuôi quốc tế từ Việt Nam sang Hoa Kỳ đã không còn giới hạn đối với trẻ em có nhu cầu đặc biệt, trẻ em trên năm tuổi và trẻ em trong nhóm anh chị em ruột. Chúng tôi tiếp tục giai đoạn 4 đến 6 trong thủ tục xin nhận con nuôi gồm có 6 giai đoạn. Sau khi bạn chấp nhận được kết hợp với một đứa trẻ cụ thể, bạn sẽ nộp đơn lên USCIS để được chấp thuận tạm thời cho đứa trẻ đó nhập cư vào Hoa Kỳ bằng cách nộp Mẫu I-800, Đơn Yêu cầu Phân loại Người nhận con nuôi Công ước là Người thân ngay lập tức. USCIS sẽ đưa ra quyết định tạm thời về việc liệu đứa trẻ có đáp ứng định nghĩa của một người được chấp nhận Công ước hay không và có khả năng đủ điều kiện để được nhận vào Hoa Kỳ hay không.
Thứ Hai, 25 Tháng Bảy 2022(Xem: 7408)
(Robert Mulllins International) Vào ngày 31 tháng 12 năm 2020, việc nhận con nuôi quốc tế từ Việt Nam sang Hoa Kỳ đã không còn giới hạn đối với trẻ em có nhu cầu đặc biệt, trẻ em trên năm tuổi và trẻ em trong nhóm anh chị em ruột. Thời gian chờ đợi để nhận được giấy giới thiệu của một trẻ em được cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam xác định đủ điều kiện làm con nuôi nước ngoài theo diện nhu cầu đặc biệt thường ngắn hơn so với những trẻ em khác. Việt Nam là thành viên của Công ước về con nuôi La Hay (Hague), nên việc nhận con nuôi từ Việt Nam phải tuân theo một quy trình cụ thể được thiết kế để đáp ứng các yêu cầu của Công ước. Dưới đây là một bản tóm tắt ngắn gọn về quá trình thông qua Công ước. Bạn phải hoàn thành các bước này theo thứ tự sau để đáp ứng tất cả các yêu cầu pháp lý cần thiết. Việc nhận con nuôi được hoàn thành không theo trình tự có thể gây ra sự chậm trễ đáng kể hoặc dẫn đến việc đứa trẻ không đủ điều kiện để được cấp thị thực nhập cư vào Hoa Kỳ.