Thủ Tục Bảo Trợ Tài Chánh Với Những Thay Đổi Quan Trọng

Thứ Tư, 07 Tháng Mười Hai 200500:00(Xem: 124670)
Thủ Tục Bảo Trợ Tài Chánh Với Những Thay Đổi Quan Trọng
- Áp dụng tại Hoa Kỳ khi nộp đơn xin chuyển diện cư trú * Mục di trú và bảo lãnh do Văn Phòng tham vấn di trú Robert Mullins International đảm trách hằng tuần, nhằm mục đích thông báo các tin tức thời sự liên quan đến vấn đề đoàn tụ gia đình, rất hữu ích cho quý vị nào quan tâm đến việc bảo lãnh thân nhân. Mọi đóng góp ý kiến xin liên lạc 1-800-411-0495 Trong một Thư Báo quan trọng, ghi ngày 23/11/2005, được gửi đi từ Văn phòng Liên Lạc Di Dân và Công Dân Hoa Kỳ của Bộ Nội An tại Hoa Thịnh Đốn, gửi đến các giám đốc vùng, các giám đốc trung tâm dịch vụ, các giám đốc quận hạt, các giám đốc trung tâm quốc gia, ông Michael Aytes, Quyền Giám đốc Nội Vụ, đã loan báo về sự thay đổi quan trọng về chính sách của Phòng Dịch Vụ Di Trú và Công Dân Hoa Kỳ (gọi tắt là USCIS) liên quan đến việc Bảo Trợ Tài Chánh với mẫu đơn I-864. 1- Mục đích: Thư Báo này thông tin cho các nhân viên duyệt xét biết rằng Phòng đã quyết định, áp dụng điều khoản 2134(0(6)(8) của Đạo Luật Quốc Tịch và Di Trú, như sau: Một người đang hoàn tất thủ tục Bảo Trợ Tài Chánh (với mẫu đơn I-864) đại diện cho đương đơn muốn xin chuyển diện cư trú (Thẻ Xanh) chỉ cần nộp một năm thuế lợi tức Liên bang, với năm thuế mới nhất so với ngày ký trên mẫu đơn I-864, thay vì phải nộp đủ 3 năm thuế lợi tức Liên bang mới nhất như trước đây. Thư Báo này cũng bạch hóa các cách thức mà nhân viên cơ quan di trú quyết định sự đầy đủ khi hoàn tất đơn I-864... 2- Hướng dẫn căn bản: a- Nộp thuế lợi tức Liên bang: Điều khoản 213A(f6)(Ai) của Đạo Luật Quốc Tịch và Di Trú quy định rằng một người bảo lãnh phải nộp các bản sao của ba năm thuế lợi tức Liên bang mới nhất của mình. Tuy nhiên, theo Điều khoản 213A(0(6B) của đạo luật này cho phép Bộ Nội An duyệt xét các hồ sơ xin chuyển diện cư trú và đồng ý cho một người bảo lãnh được nộp duy nhất một bản thuế lợi tức Liên bang mà thôi. Các cơ quan di trú USCIS đã nhận được chỉ thị thay đổi này và thi hành. Vì thế, đối với những hồ sơ xin chuyển diện với đơn I-485 nộp vào ngày hoặc sau ngày của bản Thư Báo này, người bảo lãnh sẽ không cần phải nộp bất cứ thuế của những năm khác, ngoại trừ giấy khai thuế mới nhất đang có tính đến ngày người bảo lãnh ký trên đơn bảo trợ tài chánh I-864. Thí dụ, nếu người bảo lãnh ký đơn I-864 sau ngày 15/4/2005, thì họ chỉ cần nộp thuế Liên bang năm 2004. Tuy nhiên, người bảo lãnh được quyền nộp 3 năm thuế mới nhất nếu họ tin tưởng rằng những năm thuế nộp thêm sẽ giúp cho đơn I-864 được đầy đủ hơn. Luật mới này áp dụng cho những người bảo lãnh, cũng như cho những người đồng bảo trợ tài chánh ký tên trên đơn I-864 của hồ sơ xin chuyển diện cư trú. Đối với những đơn I-485 xin chuyển diện cư trú được nộp trước ngày ký bản Thư Báo này, người bảo lãnh vẫn phải nộp 3 năm thuế mới nhất của mình. Một nhân viên di trú khi giải quyết một hồ sơ mà người bảo lãnh phải nộp đủ 3 năm thuế lợi tức Liên bang, sẽ không cần thiết phải viết thư yêu cầu người bảo lãnh phải nộp những bằng chứng thuế của những năm thuế cũ (nếu bị thiếu sót). Xin ghi nhớ rằng các cơ quan thuế IRS sẽ cung cấp miễn phí các bản sao thuế cho người đóng thuế nếu người khai thuế gửi mẫu đơn 4506T yêu cầu. Vì các đòi hỏi của đơn Bảo Trợ Tài Chánh, các nhân viên di trú sẽ chấp nhận các bản sao khai thuế từ cơ quan IRS như những bản sao thuế xác thực của người bảo lãnh. Chính vì thế, kể từ nay, các cơ quan di trú USCIS sẽ không cần đòi hỏi những chứng từ thuế như mẫu thuế W-2 hay 1099 nếu người bảo lãnh muốn nộp các bản sao thuế từ IRS, thay vì nộp những mẫu khai thuế thông thường mà người ta thường sử dụng. Một nhân viên di trú cũng có thể quyết định rằng việc yêu cầu gửi thêm các chứng minh sẽ không cần thiết trong một hồ sơ mà người bảo lãnh chỉ nộp bản sao giấy khai thuế thông thường, thay vì nộp bản sao gốc từ IRS, nhưng không nộp mẫu thuế W-2 hay 1099. Quyết định không yêu cầu nộp thêm chứng minh mẫu thuế W-2 hay 1099 được xem là hợp lý nếu nhân viên di trú kết luận rằng các bằng chứng của hồ sơ, một cách toàn thể, cho thấy những thông tin trên thuế khai lợi tức là đúng sự thật. b- Sự đầy đủ của bộ đơn Bảo Trợ Tài Chánh I-864: Các nhân viên di trú USCIS, theo luật chung, có thể thẩm định sự đầy đủ của bộ đơn Bảo Trợ Tài Chánh I-864 dựa trên các bằng chứng của hồ sơ cho thấy người bảo lãnh có các phương tiện duy trì lợi tức hàng năm, so sánh với các quy định lợi tức trên Bản So Sánh Tiêu Chuẩn Nghèo Khó vào năm mà bộ đơn I-864 được nộp. Như thế, những người duyệt xét sẽ quyết định rằng nếu lợi tức hiện tại được ghi trên I-864 phải ở mức ít nhất 125% (hoặc 100% nếu được áp dụng tùy khu vực) do với Bản So Sánh Tiêu Chuẩn Nghèo Khó. Những người duyệt xét cũng có thể quyết định nếu tổng số lợi tức của người bảo lãnh (dòng 22 trên mẫu thuế 1040 năm 2004, hay dòng 15 trên mẫu thuế 1040A năm 2004), hay tổng lợi tức được điều chỉnh đối với mẫu đơn thuế 1040EZ (dòng 4) đáp ứng Bản So Sánh Tiêu Chuẩn Nghèo Khó. Xin chú ý là khi duyệt xét thuế lợi tức năm trước với mẫu đơn xin chuyển diện cư trú I-485, nhân viên di trú sẽ thẩm định các thông tin về lợi tức so với Bản So Sánh Tiêu Chuẩn Nghèo Khó được áp dụng vào thời điểm nộp đơn. Nếu các thông tin trên thuế xác lập rằng lợi tức hiện tại của người bảo lãnh đáp ứng đòi hỏi của Bản So Sánh Tiêu Chuẩn Nghèo Khó, người duyệt xét hồ sơ có thể quyết định rằng bộ đơn Bảo Trợ Tài Chánh I-864 đầy đủ và không cần đòi hỏi phải nộp thêm các chứng minh khác. Người duyệt xét có thể đòi hỏi thêm các bằng chứng (như thư xác nhận việc làm, cùi chi phiếu lương, hay các thông tin tài chánh khác...) nếu thuế lợi tức cho thấy mức lợi tức thấp hơn quy định của Bản So Sánh Tiêu Chuẩn Nghèo Khó, và hồ sơ không có thêm các bằng chứng xác lập người bảo lãnh hội đủ các tiêu chuẩn về lợi tức. Người duyệt xét cũng có thể đòi hỏi thêm các bằng chứng (như thư xác nhận việc làm, cùi chi phiếu lương...) nếu có một lý do đặc biệt nào đó (chứ không phải lý do thời gian) để có thể đặt vấn đề về lợi tức đã khai trên đơn I-864, hay các chứng từ đính kèm. c- Không nộp đơn I-864 ở địa phương: Trước đây, cơ quan di trú USCIS cho phép các địa phương quản hạt được lập một số chính sách riêng của họ để yêu cầu nộp đơn Bảo Trợ Tài Chánh I-864 vào lúc nộp đơn xin chuyển diện hoặc vào lúc phỏng vấn. Chiếu theo bản Thư Báo kể trên, các đương đơn sẽ chỉ nộp đơn Bảo Trợ Tài Chánh với đơn xin chuyển diện cư trú. Nếu hồ sơ được nộp trước khi chính sách mới này ban hành, các nhân viên di trú sẽ cho các đương đơn nộp đơn I-864 và các giấy tờ liên hệ lúc được phỏng vấn. Văn phòng RMI xin được nhấn mạnh: Chính sách thay đổi về việc Bảo Trợ Tài Chánh trong bài viết này chỉ áp dụng cho các hồ sơ xin chuyển diện cư trú tại Hoa Kỳ. Các hồ sơ bảo trợ tài chánh liên quan đến người được bảo lãnh đang còn ở Việt Nam, hoặc các nước khác vẫn theo các thủ tục trước đây. Quý độc giả quan tâm đến việc bảo lãnh thân nhân muốn có thêm tin tức cập nhật, xin theo dõi qua báo chí hay đón nghe chương trình phát thanh của chúng tôi vào mỗi tối thứ Tư từ 7PM và sáng Chủ Nhật từ 11:00AM, trên các làn sóng 1110AM, 1430AM, 1500AM, và 106.3FM. Hoặc quý vị liên lạc với một trong những văn phòng Robert Mullins International gần nhất: Westminster: (714) 890-9933 , San Jose (408) 294-3888, Oakland-San Francisco: (510) 533-8228, Sacramento (916) 393-3388 hay qua Email: info@rmiodp.com.
Chủ Nhật, 25 Tháng Chín 2022(Xem: 7622)
(Robert Mullins International) Thông tin này dựa vào bản báo cáo của Trung Tâm Chiếu Khán Quốc Gia (NVC). Kể từ tháng 3 năm 2020, đại dịch COVID-19 đã ảnh hưởng đáng kể đến khả năng duyệt xét đơn xin chiếu khán nhập cư của Bộ Ngoại giao. Các đại sứ quán và lãnh sự quán Hoa Kỳ đang làm việc để tiếp tục các dịch vụ chiếu khán thông thường càng nhanh càng tốt. Tuy nhiên, đại dịch tiếp tục ảnh hưởng nghiêm trọng đến số lượng chiếu khán mà các đại sứ quán và lãnh sự quán có thể xét duyệt. Vào những thời điểm khác nhau, quá trình duyệt xét của lãnh sự bị chậm lại hoặc tạm dừng vì các lệnh đóng cửa tại địa phương và toàn quốc; việc hạn chế đi lại; các quy định về kiểm dịch của nước sở tại; và nỗ lực của các đại sứ quán và lãnh sự quán Hoa Kỳ để ngăn chặn sự lây lan của COVID-19.
Chủ Nhật, 18 Tháng Chín 2022(Xem: 7969)
(Robert Mullins International) Chương trình DACA đã tới lui tại các tòa án kể từ khi nó bắt đầu vào năm 2012. Một luật DACA mới đã được ban hành vào cuối tháng Tám. Ông Biden hy vọng sẽ tiếp tục DACA vì nó bảo vệ những người nhập cư đến Mỹ bất hợp pháp khi còn thơ ấu. Luật vẫn chưa đưa vào hiệu lực cho đến ngày 31 tháng 10 và nó vẫn là chủ đề của một vụ kiện tại Tòa án phúc thẩm khu vực 5. Vụ kiện đó tuyên bố DACA là bất hợp pháp. Vụ việc đó vẫn chưa xong và nếu có quyết định chống lại DACA thì chương trình sẽ cần phải lên Tòa án Tối cao một lần nữa. Chương trình DACA đã bị đóng đối với những đương đơn mới kể từ tháng 16 tháng 7 năm 2021 vì vụ kiện của tòa án liên Bang tại Texas, mặc dù chương trình vẫn cho phép gia hạn. Luật mới của ông Biden sẽ chưa có hiệu lực cho đến ngày 31 tháng 10. Chính quyền Biden hy vọng rằng việc ban hành một luật chính thức trong bộ luật liên bang sẽ bảo vệ chương trình trước tòa án liên bang.
Thứ Bảy, 10 Tháng Chín 2022(Xem: 7480)
(Robert Mullins International) Vào ngày 24 tháng 8, một nhóm vận động trong lĩnh vực EB-5 đã đạt được thỏa thuận với Sở Di Trú Hoa kỳ. Thỏa thuận khẳng định cho các Trung tâm vùng đã được chuẩn thuận trước đây sẽ duy trì trạng thái uỷ quyền của họ và không cần xin lại quy chế Trung tâm vùng. Tất cả các Trung tâm vùng, bao gồm những trung tâm đã được chuẩn thuận trước tháng 3 năm 2022, vẫn phải nộp Mẫu đơn I-956 mới và phí nộp đơn $ 17,795 trước ngày 29 tháng 12 năm 2022. Các trung tâm vùng không cần phải đợi đơn I-956 chấp thuận. Họ có thể hoạt động ngay sau khi họ nộp đơn I-956. Các Trung tâm vùng được chấp thuận trước tháng 3 năm 2022, đơn I-956 của họ phải được xem xét trước khi có Trung tâm vùng mới.
Thứ Ba, 06 Tháng Chín 2022(Xem: 8363)
(Robert Mullins International) Một cuộc phỏng vấn với Sở di trú là phần khó khăn nhất đối với người đến Hoa Kỳ có chiếu khán (visa) du lịch hoặc sinh viên du học khi kết hôn với một công dân Mỹ sau chỉ vài tháng đến Hoa Kỳ. Suy nghĩ đầu tiên trong đầu nhân viên di trú là "Làm sao họ có thể rơi vào lưới tình và kết hôn chỉ trong một thời gian ngắn như vậy?". Nhân viên Sở di trú có thể phỏng vấn cách ly hai người trong cuộc phóng vấn xin Thẻ Xanh. Nhân viên di trú có thể hỏi người chồng về màu sắc màn cửa trong phòng ngủ. Người chồng trả lời là "Xanh lá cây". Vợ anh ta trả lời cùng câu hỏi là "Xanh dương". Chỉ với những câu trả lời căn bản như vậy thôi, nhân viên di trú đã cố tìm những lý do để từ chối đơn xin điều chỉnh tình trạng cư trú.
Chủ Nhật, 28 Tháng Tám 2022(Xem: 7978)
(Robert Mullins International) Một trong những thân chủ của văn phòng Robert Mullins International mô tả lần gặp gỡ nhân viên Sở di trú giống như "một cuộc phỏng vấn nín thở qua sông", rất hồi hộp và căng thẳng. Điều chẳng có gì ngạc nhiên về những cuộc phỏng vấn với nhân viên Sở di trú sẽ rất căng thẳng với tất cả mọi người, kể cả những cặp vợ chồng có mối quan hệ trong sáng vì chẳng có gì để che dấu cả. Kể cả những cặp vợ chồng thật nhất vẫn có thể hiểu lầm câu hỏi của nhân viên phỏng vấn hoặc bị mất trí nhớ trong một thoáng nào đó, làm cho họ đưa ra những câu trả lời sai hoặc không thể chấp nhận được. Giả định rằng có một mối tình chân thật nào đó, cả hai người đều biết rằng ngày hết hạn chiếu khán du lịch hoặc du học đã gần kề, vì thế họ không màng đến việc cần có thời gian dài quen biết nhau. Tuy nhiên, nhân viên Sở di trú lại rất quan tâm về việc này.
Thứ Hai, 22 Tháng Tám 2022(Xem: 9506)
(Robert Mullins International) Kết hôn ở Việt Nam hoặc đợi kết hôn sau khi hôn phu-thê đến Hoa Kỳ, cách nào tốt hơn? Đây là thắc mắc chung của nhiều người trước khi chọn xúc tiến một loại hồ sơ bảo lãnh. Nhưng câu trả lời không dựa vào yếu tố tổng quát, mà còn tùy thuộc vào hoàn cảnh của cá nhân liên hệ. Hồ sơ diện vợ chồng thường được Tòa lãnh sự tin tưởng hơn. Với diện hôn phu - thê, lãnh sự sẽ có thể muốn biết lý do chánh đáng nào hai người lại chọn cách không kết hôn ở Việt Nam? Ưu điểm của việc chọn lập một hồ sơ theo diện vị hôn phu-thê là thời gian duyệt xét nhanh hơn khoảng ½ thời gian xét diện vợ-chồng, có thể đem theo con riêng trên 18 tuổi nhưng dưới 21 tuổi. Người bảo lãnh và được bảo lãnh vẫn có thể thay đổi quyết định không tiến tới hôn nhân sau khi nhập cảnh Mỹ trước 90 ngày. Trong khi đó, khuyết điểm cũng không ít: Tự túc bảo trợ tài chánh mà không được nhờ người phụ bảo trợ. Nếu không may hồ sơ bị từ chối, người bảo lãnh không được kháng cáo hay lập một hồ sơ
Chủ Nhật, 14 Tháng Tám 2022(Xem: 9104)
(Robert Mullins International) Nên bảo lãnh diện vợ - chồng hay hôn phu - thê? Bảo lãnh diện vợ - chồng không bảo đảm là hồ sơ sẽ được Lảnh sự dễ dàng chấp thuận, nhưng hồ sơ này sẽ dễ gây ấn tượng tốt đối với nhân viên lãnh sự hơn là hồ sơ hôn phu - thê. Bảo lãnh vợ - chồng thường đòi hỏi người bảo lãnh phải có ít nhất hai chuyến đi Việt Nam - một chuyến đi để gặp mặt trực tiếp và chuyến đi thứ hai để kết hôn. Đôi khi người bảo lãnh cần phải đi chuyến thứ ba chỉ để ký giấy hôn thú vì không đủ thời gian hoàn tất thủ tục xin hôn thú rất nhiêu khê trong lần thứ hai về Việt Nam. Đó là lý do tại sao một số người chọn bảo lãnh diện hôn phu - thê. Trong cả hai diện bảo lãnh vợ - chồng và hôn phu - thê, điều quan trọng nhất vẫn là bằng chứng liên lạc: emails, thư từ, hình ảnh, liên lạc qua các mạng xã hội, những chuyến về Việt Nam, v.v… Sở di trú đôi khi đòi hỏi phải có bản sao cùi vé máy bay, hoặc những trang trong sổ thông hành (passport) có đóng mộc ghi nhận ngày đến và rời khỏi Việt N
Chủ Nhật, 07 Tháng Tám 2022(Xem: 9076)
(Robert Mullins International) Một người vợ hoặc chồng là người ngoại quốc nhập cảnh Hoa Kỳ với loại chiếu khán (visa) phi-di-dân, không vi phạm diện nhập cảnh, có thể nộp đơn xin Thẻ Xanh nếu họ hợp lệ để xin chiếu khán di dân. Ngoài ra cũng có một số trường hợp nộp đơn xin thẻ xanh theo diện đầu tư EB-5 trực tiếp kinh doanh, hay lao động EB-3. Chúng tôi sẽ viết về 2 diện EB này trong những kỳ tới. Nếu qúy vị là khách du lịch với chiếu khán loại B-2, hoặc là sinh viên du học, hoặc nhập cảnh với chiếu khán miễn thị thực WT, qúy vị có thể nộp đơn xin Thẻ Xanh sau khi kết hôn với một công dân Mỹ.
Thứ Hai, 01 Tháng Tám 2022(Xem: 8137)
(Robert Mullins International) Tiếp theo phần 1 kỳ trước, việc nhận con nuôi quốc tế từ Việt Nam sang Hoa Kỳ đã không còn giới hạn đối với trẻ em có nhu cầu đặc biệt, trẻ em trên năm tuổi và trẻ em trong nhóm anh chị em ruột. Chúng tôi tiếp tục giai đoạn 4 đến 6 trong thủ tục xin nhận con nuôi gồm có 6 giai đoạn. Sau khi bạn chấp nhận được kết hợp với một đứa trẻ cụ thể, bạn sẽ nộp đơn lên USCIS để được chấp thuận tạm thời cho đứa trẻ đó nhập cư vào Hoa Kỳ bằng cách nộp Mẫu I-800, Đơn Yêu cầu Phân loại Người nhận con nuôi Công ước là Người thân ngay lập tức. USCIS sẽ đưa ra quyết định tạm thời về việc liệu đứa trẻ có đáp ứng định nghĩa của một người được chấp nhận Công ước hay không và có khả năng đủ điều kiện để được nhận vào Hoa Kỳ hay không.
Thứ Hai, 25 Tháng Bảy 2022(Xem: 7569)
(Robert Mulllins International) Vào ngày 31 tháng 12 năm 2020, việc nhận con nuôi quốc tế từ Việt Nam sang Hoa Kỳ đã không còn giới hạn đối với trẻ em có nhu cầu đặc biệt, trẻ em trên năm tuổi và trẻ em trong nhóm anh chị em ruột. Thời gian chờ đợi để nhận được giấy giới thiệu của một trẻ em được cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam xác định đủ điều kiện làm con nuôi nước ngoài theo diện nhu cầu đặc biệt thường ngắn hơn so với những trẻ em khác. Việt Nam là thành viên của Công ước về con nuôi La Hay (Hague), nên việc nhận con nuôi từ Việt Nam phải tuân theo một quy trình cụ thể được thiết kế để đáp ứng các yêu cầu của Công ước. Dưới đây là một bản tóm tắt ngắn gọn về quá trình thông qua Công ước. Bạn phải hoàn thành các bước này theo thứ tự sau để đáp ứng tất cả các yêu cầu pháp lý cần thiết. Việc nhận con nuôi được hoàn thành không theo trình tự có thể gây ra sự chậm trễ đáng kể hoặc dẫn đến việc đứa trẻ không đủ điều kiện để được cấp thị thực nhập cư vào Hoa Kỳ.